Đằng sau những lá bài
Một bài về Xuân Vũ
Một bài về Xuân Vũ
|
8:06 PM (1 hour ago)
| |||
From:
======
===========
==================
Thưa quí đồng hương,
Tôi cũng thích nhà văn hồi chánh Xuân Vũ, nhưng trước ông nhiều năm tôi tình cờ đọc báo truyện VỀ R của Kim Nhật rất hấp dẫn, nhưng không tin lắm những điều ông viết.
Vả lại vào đầu thập niên 70 sinh viên như tôi mê đọc tác giả ngoai quốc qua các truyện dịch, nhất là các nhà văn tầm cỡ quốc tế, đoạt giải thưởng văn chương cao quí như Nobel chẳng hạn.
Thời đó bọn tôi mê đọc truyện dich về xã hội đen mafia như Bồ Già (The Godfather); truyện chống Cộng như của tác giả Alexander Solzhenytsin (Tầng đầu địa ngục / The First Circle; Quần đảo ngục tù / The Gulag Archipelago ...), Giờ thứ 25 (La Vingtcinquième heure).
Sau 75 vài năm tình cờ mượn được sách VỀ R của Kim Nhật, đọc lại mới thấm thía hơn. Sau này mỗi lần đọc lại là một lần chiêm nghiệm ra nhiều điều hay về CSVN nói riêng và CS thế giới nói chung.
Tôi đã mua tác phẩm này và một số tác phẩm chọn lọc của Xuân Vũ cho tủ sách riêng.
Xin phép Ban Biên Tập Đàn Chim Việt cho "mượn đất" dể trân trọng giới thiệu VỂ R. Rất tiếc đến nay tôi không rõ Kim Nhật là ai.
Trân trọng,
LMC
=====
VỀ R
Kim Nhật
Xin ghi nhận nơi đây lời cảm ơn chân thành :
- Các bạn bên kia chiến tuyến trở về
- Các bạn bè thân hữu
- v.v…
Đã giúp tài liệu, ý kiến để hoàn thành.
Xin gửi: Thế hệ hôm nay và ngày mai.
KN
Quan điểm người viết
1. Trước tiên, người viết xin ghi nhận nơi đây lời cảm ơn chân thành các Bạn từ bốn phương, ở quốc nội cũng như quốc ngoại, đã điện thoại cũng như thư về góp ý kiến, phê bình, và ngõ ý sốt ruột trông chờ “Về R” tập II, tập III sau khi tập I được in, phát hành từ năm 1967, nhất là đối với các bạn chỉ được nghe đồn nhưng không tìm mua được tập I bất kỳ ở hiệu sách nào, dù gửi thư kèm cước phí đến tác giả hoặc nhà xuất bản. Bởi sách được bán hết trong thời gian rất ngắn sau khi phát hành với số lượng rất khiêm nhường 10.000 cuốn.
Kế đến người viết xin được tạ lỗi cùng các Bạn, cầu xin một sự thông cảm, tha thứ về những lỗi lầm trong “Về R” tập I do Sống xuất bản. Những lỗi lầm đó gồm : In ấn cẩu thả, dẫy đầy những lỗi chính tả v.v… đặc biệt là có một số chi tiết tài liệu viết sai, đáng trách, cần phải được chữa lại cho đúng.
2. “Về R” được đến tay các bạn ngày hôm nay, là “Về R toàn tập” vừa tái bản lần thứ nhất tập I, vừa xuất bản tập II và tập III. Nghĩa là tập I, II, III được in chung. Những chi tiết sai trong tài liệu cũng như những lỗi lầm khác được người viết cố gắng chữa lại một cách cẩn trọng.
3. “Về R” là tác phẩm tài liệu chiến tranh, đã được đăng trên nhật báo Sống trong năm 1967, trước khi gom lại in thành sách. Do đó, về phần kỹ thuật, có thể có nhiều điều làm các bạn không được hài lòng, mong các Bạn không nỡ trách.
Thiên tài liệu này được viết từ năm 1967, nên những điều ghi chép ở đây, nếu được phép gọi nó là “dữ kiện lịch sử”, xin các bạn hiểu cho rằng giá trị của nó được giới hạn từ 1967 trở về trước. Những gì xẩy ra ở giai đoạn đó, không giống như những điều ta được thấy được biết hôm nay.
4. Người viết xin được lập lại phần quan điểm đã viết trong lần xuất bản năm 1967 vài đoạn :
“Trong bất cứ cuộc chiến nào, kẻ chủ động là kẻ biết đánh giá thật đúng thực chất của đối phương. Kẻ chiến thắng là kẻ biết ta, biết địch - biết từ chỗ mạnh đến chỗ yếu, biết từ chỗ tốt đến chỗ xấu. Có như thế ta mới hóa giải được cái mạnh của địch và biết đem cái yếu của địch làm cái mạnh của ta cũng như biến cái xấu của địch thành cái tốt của ta.
Điều đáng quan tâm là biết lợi dụng, khai thác cái tốt của địch làm cho cái xấu của ta biến trở thành tốt hơn địch.
Viết thiên tài liệu này, chúng tôi cố gắng đạt đến mức chính xác tồi đa và cố gắng thật vô tư trong cách trình bày sự kiện. Lớn tiếng, hò hét, đặt điều thêm bớt, gán cho kẻ địch những điều do mình tưởng tượng, chúng tôi nghĩ rằng điều đó không nên làm vì tự nó làm giảm giá trị của ta và nhất là có thể gây nên phản tuyên truyền, mà hậu quả cái hại không sao lường được”.
Dựa vào quan điểm trên đây, chúng tối xin được giới thiệu đến các bạn thiên tài liệu này, để hiểu phần nào về cuộc sống, về tổ chức và những gì đã xẩy ra trong những ngày đầu của cái gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam” ở vùng đất gọi là R – vùng căn cứ của Trung Tâm Chỉ Huy điều khiển chiến tranh của Cộng Sản Hànội tại miền Nam – mong được góp phần nhỏ công sức trong công cuộc bảo vệ chung cho mảnh đất tự do đầy khói lửa này.
KN
Đồng Chí Bớc Sét
Năm 1962, có một ký giả người Úc tên Burchette từ Melbourne đến Sàigòn đề săn tin và tìm hiểu về cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt nam. Burchette đến Sàigòn với giấy thông hành, chiếu khán của Úc.
Sau khi đến Sàigòn, Burchette cũng xin yết kiến, phỏng vấn “ngài Tổng thống” Ngô Đình Diệm, “ngài Cố vấn” Ngô Đình Nhu, tiếp xúc vời nhiều giới khác nữa. Burchette nhờ “trụ sở liên lạc báo chí thế giới” ở đường Pasteur thuê hộ một chiếc xe du lịch để đi đó, đi đây trong những ngày ở Sàigòn.
Đứng về phương diện an ninh quốc gia, các cơ quan tình báo biết rõ Burchette hơn ai hết do những nguồn tin từ toà đại sứ Việt nam tại Úc, do những cơ quan chuyên môn… cho nên khi đến Sàigòn, mọi cuộc xê dịch di chuyển của Burchette đều được cơ quan an ninh Việt Nam theo dõi, giám sát. Burchette cũng biết thế nên tìm mọi cách để đánh lạc hướng nhân viên tình báo Việt nam, bằng những cuộc đi chơi bạt mạng bất kể giờ giấc ở ngoại ô Sàigòn, ở Đàlạt, Vũng tàu, Mỹ tho v.v… Cuối cùng Burchette mất tích. Tin đó chỉ có Bộ Ngoại giao biết, các cơ quan an ninh liên hệ, và một ít người khác biết mà thôi. Vì biết quá rõ lý lịch của Burchette nên không một ai nghĩ là Burchette bị VC bắt cóc bao giờ, dù thừa hiểu rằng lúc ấy Burchette đang có mặt tại chiến khu vùng biên giới Tâyninh.
Đối với một ký gỉả săn tin quốc tế, chuyện xẩy ra là một chuyện thông thường nên chẳng ai quan tâm đến cho lắm. Nhưng vài tháng sau “đài phát thanh Giải phóng” loan tin Burchette đến thăm chiến khu và ca ngợi Burchette không tiếc lời. Burchette được phong là đại ký giả nổi danh thế giới, hàng ngũ báo chí thế giới xem Burchette như một đàn anh, uy tín trùm cả hai phe xã hội chủ nghĩa và đế quốc. Lúc đó Burchette đang có mặt tại Hànội.
Thực sự Burchette chỉ là một ký giả như bao ký giả ngoại quốc khác đến Việt nam. Nhưng tại sao Burchette được thổi phồng, được “người ta” hoan nghênh, đề cao lên tột đỉnh ? Chỉ vì Burchette là một đảng viên Cộng sản, và là người ký giả đầu tiên “lăng xê” Mặt Trận Giải phóng Miền Nam, cổ võ hết mình trên một tờ báo thiên Cộng ở Melbourne và tờ báo của Cộng sản Ý xuất bản ở Milan. Vì “công trận” đó Burchette đáng được ca ngợi, phong lên hàng “đại ký giả” của thế giới.
Từ năm 60, 61, nhất là sau vụ đảo chánh hụt Ngô Đình Diệm tháng 10, chiến cuộc Việt Nam bắt đầu lan rộng. Nhiều ký giả quốc tế đến Sàigòn muốn tìm hiểu về MTGPMN, tổ chức, sinh hoạt, đời sống của họ ra sao.
Những ký giả gan lì thường dùng cách lái xe chạy phất phơ vào rừng được gọi là bất an ninh để du kích bắt đi, nhưng chẳng thấy ai chặn xe, đón đường cả. Họ đành thất vọng, trở về Sàigòn. Một vài tay ký giả trong số đó, bèn dùng cách đi sâu vào những làng nằm cặp theo quốc lộ số 1 hay quốc lộ số 4, nơi mà nhiều người điềm chỉ ở đó có nhiều VC. Nhưng cũng chẳng may cho họ là khi gặp du kích, bắt họ bịt mắt dẫn đi, xem họ là Mỹ, định làm thịt. Họ rụng rời tay chân. Vì ngôn ngữ bất đồng, ra dấu, ọ ẹ mãi chẳng ai hiểu ra sao, đến chừng mang máng hiểu được “không phải lính Mỹ” mà là ký giả thì du kích lại bịt mắt dẫn ra, nhờ đồng bào đưa lên lộ để đón xe về Sàigòn. Nghĩa là xuýt tí nữa thì mất đầu vì người ta không chấp nhận bất cứ người lạ nào, dù mũi cao hay mũi thấp vào vùng của họ, để ý dòm ngó việc họ làm. Rút cục chẳng đi đến đâu.
Trường hợp đó là trường hợp nổi hứng bất ngờ của mấy ký giả muốn săn tin chiến tranh.
Với những ký giả quốc tế khác, biết chuyện hơn, muốn đi vào vùng chiến khu, muốn tiếp xúc trực tiếp với Nguyễn hữu Thọ, với “Mặt Trận”, họ đều suy tính kỹ càng : gõ vào cánh cửa ngoại giao. Những ký giả đó nhờ những toà đại sứ ở Hànội, nhờ Ủy hội quốc tế vận động thẳng với Bộ Ngoại giao Hànội cho phép họ vào vùng “giải phóng” ở miền Nam. Dĩ nhiên Bộ Ngoại giao Hànội lắc đầu nguầy nguậy, chối phăng :
- Việc đó chúng tôi không có thẩm quyền. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đâu có dính dáng gì đến chúng tôi. Chúng tôi không biết, không thể làm vừa ý các ông được.
Nếu là “bồ bịch” thuộc phe xã hội chủ nghĩa thì Bộ Ngoại Giao trả lời theo kiểu khác :
- Việc đó để chúng tôi thảo luận lại với Mặt trận. Chúng tôi sẽ chuyển đến Mặt trận lời yêu cầu của các đồng chí. Nhưmg được hay không chúng tôi xin không hứa gì cả. Các đồng chí thông cảm cho.
Thấy vận động thẳng với Hànội không kết quả, họ mới “sực nhớ” ra họ đã vô tình “chơi xấu”, đưa Hànội vào một thế khó xử bởi cái khuôn khổ của Hiệp định Genève và công pháp quốc tế. Số ký giả đó, bay thẳng sang Nam vang. Chả là Nam vang gần biên giới Tây ninh, vùng được xem là căn cứ của Mặt trận của Nguyễn hữu Thọ và tại Nam vang có trụ sở của Phái đoàn Đại diện Thương mãi của Hànội do Ca văn Thỉnh là trưởng đoàn. Trụ sở của Phái đoàn Đại diện Thương mãi là cơ sở liên lạc thường trực giữa Mặt trận, Trung ương Cục Miền Nam và Trung ương Đảng Miền Bắc.
Ký giả phe Xã hội chủ nghĩa thì hy vọng ở Phái đoàn Đại diện Thương mãi sẽ vận động xin “nhập cảnh” chiến khu giúp. Ký giả phe “đế quốc” thì đến Nam vang o bế Sihanouk, hy vọng ở sự giúp đỡ của Sihanouk, vì tuy không nói ra nhưng các ký giả đều rõ rằng nếu không có sự làm lơ của Sihanouk, hoặc ủng hộ ngầm thì Sihanouk đã la làng chói lói khi “thiên hạ” lấy biên giới mình làm căn cứ. Nhiều lúc còn kéo sâu vào nội địa mình mà xây căn cứ nữa. Sihanouk vốn đã bẻm mồm bẻm mép, to tiếng có danh, chuyện gì một chút cũng có thể suýt ra to, tại sao “Mặt trận” chiếm vùng biên giới, xử dụng đất Miên như đất nhà, Sihanouk biết quá rõ vẫn làm thinh ? Không chỉ làm thinh, còn bênh vực một cách rõ ràng khi Việt Nam Cộng Hoà phản đối, phàn nàn việc trên, Sihanouk làm bộ mời ký giả ngoại quốc, quan sát viên ngoại quốc và Ủy hội Quốc tế đi xem xét.
Nhưng xem xét điều tra cái nỗi gì khi toàn rừng rậm, đường xe không có, cả cái đường mòn đặt chân được đôi giầy không bị gai mây ngăn cản cũng không thì điều tra, quan sát chỗ nào ? Đi xe đã không có đường, đi bộ mặc veston, thắt “cà la oách” lội sình, càn rừng à ? Vô lý ! Vậy chỉ có bay trên trời. Bay trên trời còn có thể thấy gì trong rừng rậm âm u ? Hoà cả làng.
Biết rõ như vậy, nếu được Sihanouk hứa giúp đỡ, hưá vận động dùm thì một lời nói của Sihanouk đáng giá 1.000 ký lô. Đến Namvang, dù chả được ai giúp đõ, chả được ai cho “nhập cảnh” đi nữa, việc săn tin, đánh hơi tin tức vẫn dễ dàng hơn bất cứ nơi nào khác. Ngoài việc tìm tòi nghe ngóng đánh hơi riêng, ký giả còn được các tình báo viên quốc tế cung cấp nữa chi.
Do đó, không ai lấy làm lạ khi cái nước “Cam bô đia” bé tí xíu chả có việc gì đáng cho thế giới quan tâm, mà ký giả quốc tế lại hàng đàn, hàng đống ở chật cả mấy hotel, ăn chực nằm chờ năm này đến tháng nọ, suốt mấy năm liền. Cho đến 1966 Sihanouk “làm eo, làm xách” lấy cớ một số ký giả quốc tế lợi dụng Cambodia để mưu tính những chuyện ngoài ý muốn của Cambốt. Đã vậy còn “xuyên tạc” nói xấu Cambốt và Thái tử Quốc trưởng nên Cambốt chỉ cho phép một số ký giả “trong sạch”, một số ký giả biết điều nhập cảnh vào Namvang thôi. Để chứng tỏ ta đây là vô tư, Sihanouk ra thông cáo công bố cho thế giới biết sự hạn chế đó, chọn lọc đó nhằm vào cả hai phe, ba phe, không chỉ riêng phe “đế quốc tư bản” mà thôi.
Kết quả của các cuộc chạy đua đến Namvang thế nào ? Hoàn toàn là con số không ! Kể cũng buồn !
Trường hợp của Burchette đặc biệt hơn. Burchette vận động bằng một kiểu cách khác - kiểu cách Đảng. Nghĩa là Burchette báo cáo với Đảng Cộng sản Úc về chương trình công tác của mình. Đảng Cộng sản Úc liền viết thư giới thiệu đến Trung ương Đảng Lao Động ờ Hànội, xin chấp thuận cho phép Burchette vào thăm và tham quan cuộc “kháng chiến chống Mỹ Diệm” tại chiến khu ở miền Nam. Trung ương Đảng, Bộ chính trị Đảng Hànội cứu xét, chấp thuận lời yêu cầu trên, liền thông báo và ra lệnh cho Trung ương Cục miền Nam , chuẩn bị cuộc tiếp đón. Mặt khác viết thư trả lời cho Đảng Cộng sản Úc, hướng dẫn cách đến miền Nam, cũng như kế hoạch tiếp xúc mà Hànội đã trù tính.
Burchette không đến Hànội, cũng không cần đến Namvang trước khi vào chiến khu. Vì như vậy sẽ gặp nhiều khó khăn trở ngại trong chuyến đi. Thủ tục “nhập cảnh” vào giang sơn của R, đối với Burchette là thủ tục thông thường của hệ thống Đảng.
Điều cần nên nói thêm, không phải bất cứ ký giả nào thuộc “12 nước phe Xã Hội Chủ Nghĩa” được Ban Chấp hành Trung ương Đảng của nước mình giới thiệu đến Trung ương Đảng Hànội là đều được chấp nhận. Trước cũng như sau Burchette, có hàng chục trường hợp tương tự của những ký giả báo IZ VESTIA, PRAVDA (Nga), rồi của các ký giả Cộng sàn Ý, Hung, Tiệp, Ba lan v.v… Những ký giả trên không được chấp nhận, Lý do được viện dẫn trả lời là “an ninh không được bảo đảm” hoặc “tình hình chưa cho phép”. Thực sự chỉ vì khuynh hướng của các Đảng Cộng sản Châu Âu không tán thành mấy đường lồi đấu tranh vũ trang trong cuộc cách mạng Miền Nam, khi Việt nam đang ở trong tình trạng phân đôi Nam Bắc, có sự ràng buộc pháp lý bởi hiệp định Genève, nhất là đường lối đấu tranh bằng vũ lực trong tình hình thế giới hiện tại, có thể đưa đến chiến tranh cục bộ như chiến tranh Triều Tiên. Hậu quả có thể vược quá phạm vi cục bộ trở thành chiến tranh thế giới thứ ba ! Và riêng những cá nhân ký giả được giới thiệu, tư tưởng, lập trường qua những bài báo đã viết không phù hợp với tư tưởng, lập trường của Hànội.
Đối với Đảng Cộng sản Úc, là một Đảng Cộng Sản nhỏ đang trong giai đoạn phát triển và đấu tranh với các đảng phái khác đang cầm quyền tại Úc, dầu sao khi chưa cầm quyền được cũng phải đấu tranh tích cực hơn. Và Burchette, qua những bài báo đã viết, hoàn toàn ủng hộ, tán thành lập trường của Hànội. Hànội rất cần những ký giả như Burchette đề lên tiếng thay cho mình trên thế giới, tạo ảnh hưởng rất lớn trong việc trình diện tổ chức “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”, tuyên truyền cho nó, gây tiếng vang cho nó, mục đích làm cho thế giới chấp nhận sự hiện hữu ít ra là trên phương diện ngoại giao quốc tế.
Theo kế hoạch đã định, Burchette đến thẳng Sàigòn bằng con đường công khai, hợp pháp như các ký giả quốc tế khác. Tại đây sẽ có người đến liên lạc tiếp xúc với Burchette, và đón Burchette vào chiến khu.
Có lẽ các cơ quan an ninh Sàigòn dạo đó chưa có đủ nguồn tin để xác nhận mục đích của Burchette đến Sàigòn, chỉ biết đó là một ký giả cộng sản đến Việt nam nên chưa theo dõi đúng mức, lạc mất dấu Burchette ở ngoại ô Sàigòn vào một buổi sáng. Sau đó Burchette được một thiếu phụ đóng vai bồ bịch cùng ngồi xe đưa đi trên con đường Tâyninh, đổ bộ xuống một đồn điền cao su nhỏ ở Trảng Bàng. Một tiểu đội cảnh vệ đặc biệt của I.4 nằm chờ sẵn, đưa về Hố Bò ngay trong đêm. Chỉ huy tiểu đội cảnh vệ là một đại đội trưởng, cán bộ mùa thu, nói tiếng Pháp rất thạo. Ngoài viên đại đội trưởng còn có khu ủy viên dự khuyết của khu ủy I.4 Ba Nghị. Ba Nghị giỏi tiếng Pháp, còn thông thạo cả Anh và tiếng Trung hoa.
Hành lý của Burchette gồm có một vali nhỏ, một máy đánh chữ xách tay, và một máy chụp ảnh Minolta. Xuống xe, Ba Nghị bắt tay chào hỏi và giới thiệu các đống chí của mình với Burchette xong, liền đưa cho Burchette một đôi dép râu để thay cho đôi giầy da bóng. Tiểu đội cảnh vệ chia nhau mang hành lý cho Burchette. Sau đó cả đoàn đưa nhau lên xe đạp chạy một mạch.
Mười hai giờ đêm, Burchette về đến xóm chùa thuộc khu vực Hố Bò. Burchette nhìn thấy các đồng chí Cộng sàn Việt nam của mình mặc đồ bà ba đen, giống như những nông dân địa phương mà Burchette gặp trên đường đi nên đề nghị với Ba Nghị xin một bộ đồ bà ba đen. Như đã cho may sẵn từ trước, Burchette thỏa mản yêu cầu ngay với một bộ đồ bà ba đen ngoại khổ, hợp với tầm vóc của Burchette bằng vải popeline đen.
Ba Nghị đưa Burchette đi tắm sau giếng, thay đồ bà ba, vào nhà thì bữa ăn tối đã được dọn xong. Đèn Hoa kỳ đốt sáng choang. Người ta thấy trên bàn nào là gà rôti, bò bít tết, cải xà lách Đàlạt, cà chua, bánh mì v.v… Nói chung là một bữa ăn Tây hoàn toàn, rất ngon, có cả rượu Mạc ten, nước đá. Sửa lại cặp kính gọng vàng trên sóng mũi, Burchette cười toét miệng đến mang tai, ngạc nhiên hết sức về cái bữa ăn đầu tiên ở “vủng giải phóng” này. Burchette không ngớt lời cảm ơn. Qua câu chuyện trao đổi với Ba Nghị, Burchette phát biểu ý kiến rằng khi còn ở Úc, cũng như lúc đến Sàigòn, Burchette quan niệm chiến tranh du kích ở đây, phải trốn chui, trốn nhủi, trong rừng sâu, trong bụi rậm, thiếu thốn đói khát, gian khổ, làm gì có được một bữa cơm ngon. Bây giờ thực không ngờ ! Burchette phục lắm.
Căn nhà được khu ủy I4 mượn để đón Burchette là một căn nhà ngói kiểu xưa, nền gạch, vách ván bỏ kho, mái thấp. Trước sân có trồng mấy chậu kiểng. Giữa nhà để một cái tủ thờ, lư huơng chân đèn bằng đồng chùi bóng. Trên có treo liễng, hoành phi, làm Burchette thấy lạ mắt, cứ nhìn mãi. Nhà đó là nhà của một cán bộ xã. Burchette nói với Ba Nghị muốn được chào chủ nhà và cảm ơn. Lúc đó vợ chồng chủ nhà đã thức, và mấy cô con gái đang nép sau cửa buồng ngơ ngác nhìn “ông Tây” ký giả không chớp mắt, thỉnh thoảng bình phẩm vài câu thích thú, buồn cười cái bộ bà ba đen mặc trên người ông ta.
Gia đình bà chủ nhà chưa hề được biết trước về nhân vật mũi cao này. Mãi cho đến khi chiều, thấy các “đồng chí” đóng ở nhà mình, đi mua chở về nào gà, nào thịt bò, rau cải, bánh mì, đồ nấu, rượu v.v… rồi ai nấy lăng xăng, không khí coi bộ nhộn lên giống nhà có giỗ, thì “đồng chí anh nuôi” mới từ đâu đưa lại :
- Nè chú ! Chiều nay mầy chú làm gì coi bộ lăng xăng quá vậy ? Bộ tổ chức liên hoan hả ?
- Không phải bác ! Mình sửa soạn đón một nhà báo ngoại quốc !
- Người nước nào vậy ?
- Tôi cũng không rõ, chắc Tây U gì đây ! Tôi chỉ được cấp trên phổ biến là chuẩn bị một bữa ăn Tây để phục vụ cho một nhà báo ngoại quốc. Ngoài ra chưa biết gì thêm.
Bây giờ khi Ba Nghị đưa Burchette về đến thì ông chủ nhà đi họp ở xã cũng vừa về, vào buồng thay đồ đánh thức vợ dậy để coi ông Tây, hỏi vợ xem thằng ngoại quốc nào, ở đâu đến, vì suốt ngày ông ta không có mặt ở nhà nên không biết. Mấy cô con gái lớn đang ngủ nghe ồn ào biết nhà báo ngoại quốc đã đến cũng lóp ngóp bò dậy nhìn xem mặt mũi ra sao.
Nghe Burchette muốn chào chủ nhà, Ba Nghị mỉm cười gật đầu, đảo mắt nhìn quanh và gọi :
- Chú Tư ơi ! Mời chú Tư ra chơi, chú Tư.
Ông chủ nhà ngỡ ngàng, cài nút áo cổ, bước ra. Burchette đưa tay bắt, cười và nói một hơi. Ba Nghị dịch lại, cho biết Burchette có lời chào cảm ơn sự tiếp đón của gia đình. Ba Nghị cũng nói thêm :
- Đây là đồng chí “Bớc sét” của ta, một đảng viên của Đảng Cộng Sản Úc đại lợi, là một ký giả ngoại quốc nổi tiếng đến thăm và tham quan cuộc “kháng chiến chống Mỹ Diệm” của chúng ta để viết bài giới thiệu và cổ võ cho chúng ta trên báo chí thế giới.
Bỗng nhiên có tiếng vỗ tay hàng loạt của mọi người đứng chung quanh. “Bớc Sét” cười toét miệng, cũng vỗ tay theo.
Bảy giờ sáng hôm sau, R nhận được điện của I.4 báo là đồng chí Bớc Sét đã đến và xin chỉ thị của Trung Ương Cục. I.4 cho biết là Bớc Sét yêu cầu được ở lại các xã vùng đồng bằng quanh Sàigòn đề theo các du kích quay một cuốn phim, quan sát sinh hoạt, đời sống của “nhân dân vùng giải phóng”. R lập tức trả lời là không chấp thuận, phải đưa Burchette về R ngay. Hạn chế sự tiếp xúc với nhân dân, với các tổ chức khác, hạn chế đến tối đa tầm mắt cũng như việc đi lại của Burchette. Khi R tiếp xúc trực tiếp với Burchette, điều nghiên kỹ càng mới quyết định sau. Vậy là Burchette được nghe trả lời “Vì là lệnh của Cấp trên nên chúng tôi không dám tự chuyên. Xin mời đồng chí hãy đến gặp Trung ương Cục và Mặt trận. Trung ương Cục sẽ giúp đồng chí toại nguyện”.
Điều đó có nghĩa tuy Burchette là đảng viên Cộng Sản, quan điểm cá nhân xuyên qua báo chí có phù hợp đường lối Hànội phần nào, nhưng toàn bộ tư tưởng của Burchette, Trung Ương Cục miền Nam chưa được rõ. Mặt khác, về phương châm làm việc, nguyên tắc của Đảng, bao giờ cũng là “chuẩn bị tốt” ! Chưa điều nghiên, chưa chuẩn bị chu đáo, chưa có kế hoạch, chưa làm ! Những hình ảnh Burchette thu vào ống kính là những hình ảnh tuyên truyền. Những lời nói, những con người, những sự kiện trong thiên phóng sự của Burchette sau này là những yếu tố hết sức quan trọng, nó có tính cách “điển hình cho khí thế cách mạng”, vậy tất cả những thứ đó cần được chuẩn bị trước, “dàn cảnh” cho chu đáo. Phải tập tành, phải học tập cho thuần thục. Rồi còn vấn đề bảo vệ an ninh, vấn đề phòng gian bảo mật v.v… Đủ thứ chuyện.
Từ Hố Bò, Burchette được một tiểu đội hộ tống lên Lộc Thuận, qua Cầu Xe, xuyên rừng Bời Lời đến suối Ông Hùng, vượt sông Bà Hão về thẳng căn cứ Trung Ương Cục ở biên giới Tây ninh - Cam bốt. Burchette đang còn trên con đường đi về Trung Ương Cục, thì suốt mấy ngày liền Thường vụ Trung Ương Cục bận tíu tít lo chuyện tiếp đón. Nào là họp Thường vụ bàn kế hoạch, chương trình, phân công người phụ trách theo dõi, nào cho dọn dẹp nhà cửa, trang trí, nào là thảo kế hoạch chi tiết để chỉ thị cho nhũng nơi mà Burchette sẽ được Trung Ương Cục cho phép đến.
Theo chương trình được hoạch định đó, Burchette sẽ đến thăm các nơi như Bộ Chỉ huy R, Văn phòng Mặt trận của Nguyễn hữu Thọ, thăm đài phát thanh Giải phóng, gặp các giới, các thành phần của Mặt trận, đi thăm các cơ sở Hậu cần R, khu B, đi thăm Q.761 và du kích I.4. Thời dụng biểu cho cuộc tiếp xúc của Burchette được Trung Ương Cục tính chi ly từng ngày. Ngày nào Burchette đến Bộ Chỉ huy R, ngày nào gặp Nguyễn hữu Thọ, ngày nào đến đơn vị Hậu cần khu B, ngày nào đến Công trường của B.1, ngày nào đến bệnh viện 320, ngày nào đến Q.761, ngày nào trở lại I4 v.v… tất cả đều sắp xếp trước, chỉ thị về mục đích yêu cầu, cách tiếp đón ra sao, ăn uống sinh hoạt thế nào v.v… đủ cả. Bộ phận điện đàm của B1 cứ tít tít ta ta suốt ngày cho các đơn vị xa. Các đơn vị gần thì giao liên, cần vụ mang thư, mang chỉ thị chạy vắt giò lên cổ.
Khổ nhất có lẽ là mấy anh em tiếp phẩm, bộ phận quản lý của các nơi mà Burchette sẽ đến. Khổ vì phải chạy chọt, khiêng vác những thứ thực phẩm đặc biệt mua tận đồng bằng hoặc thị xã Tây ninh hay tận Sàigòn. Thịt cá, gà vịt, rượu trà, rau cải, đồ nấu v.v… Phải chi chỉ có một mình Burchette ăn cũng không đến nỗi gì lắm. Một mình Burchette ăn nhậu có là bao, và dù có cực khổ để chiều khách cũng thấy vui. Đàng này, không phải chỉ có mỗi Burchette mà còn có “tiếp tân”, các cán bộ cao cấp đi theo, còn có Ban chỉ huy đơn vị “tham gia hưởng thụ” nữa. Cái đám cán bộ tẹp nhẹp và chiến sĩ quèn thì đừng hòng. Ngay những anh chị tiếp phẩm là những người nai lưng ra công vác, khiêng lội bộ rã giò hàng mấy ngày đường những thứ thực phẩm đó còn chẳng được chấm mút miếng nào thì nói chi ai.
Nếu Burchette biết trước rằng cái chuyện mình đi làm phóng sự, quảng cáo cho cái gọi là “cuộc cách mạng thần thánh chống Mỹ Diệm” gây nên không biết bao nhiêu điều vất vả cho các “đồng chí công nông” của mình, chắc Burchette đã từ bỏ ý định này. Giá trị thực sự những điều tai nghe mắt thấy trong chuyến đi đều là những màn dàn cảnh được tập dượt chu đáo nhiều ngày của một vở kịch lớn có nhiều đạo diễn thiện nghệ , chứ không phải những hình ảnh bất chợt, những sinh hoạt bình thường hoặc một hiện trạng được phơi bầy rõ nét. Biết thêm điều nầy nữa Burchette còn buồn biết bao nhiêu.
Nhưng tại sao Trung Ương Cục quan trọng hóa chuyến đi thăm của một ký giả quèn như Burchette đến như vậy ? Điều đó quá rõ ràng, không ai không hiểu. Quan trọng vì những điều Burchette nghe thấy ở đây, Burchette sẽ ghi lại bằng lời, bằng hình ảnh đăng trên báo chí ngoại quốc để giới thiệu Mặt Trận. Về mặt tâm lý, việc tiếp đón Burchette có chu đáo, có biểu hiện sự “nồng hậu”, thân thiết nhất” nó mới gây hứng thú, mới thuyết phục được tình cảm và lập trường, tư tưởng Burchette đi theo chiều hướng vận động của cộng sản Việt nam. Dù cùng phe, dù là “đảng anh em”, Burchette vẫn là con người thích người khác đề cao, kính trọng, quan trọng hóa mình.
Để tạo nên những sự kiện, “những hình ảnh nổi bật”, đúng theo ý muốn của mình, Trung Ương Cục miền Nam cần phải dựng vở, phải tập dượt, đạo diễn kỹ càng các màn được thực hiện. Đảng bảo rằng “Tuyên truyền là phân nữa lực lượng kháng chiến”, có Burchette đóng góp vào một tay, điều đó quả thật hết sức cần. Cho đến nay, Tổng thư ký LHQ, U. Thant, còn bảo rằng Mặt trận là một tổ chức quần chúng không dính dáng đến Cộng sản miền Bắc, rồi nếu còn có một số lớn các nhân vật tên tuổi trên thế giới cũng hiểu như U. Thant, nếu còn có nhiều quốc gia mù tịt chưa hiểu rõ về cuộc chiến tranh này thì cái “phân nửa lực lượng kháng chiến” đó biết đâu chẳng là có sự đóng góp một phần của Burchette.
Đi sâu vào cụ thể, ta thấy việc chuẩn bị được nghiên cứu rất chi li. Burchette không biết tiếng Việt, đó là một lợi điểm về mặt lý luận. Nghĩa là khi phỏng vấn bất thần một cán bộ chiến sĩ nào đó, Burchette không có thông dịch viên do Đảng cung cấp thì đành cua tay, không sao thực hiện được. Ngôn ngữ bất đồng, cứ bi bô ra dấu thì có cũng thành không, làm sai diễn tả được lý luận ? Còn qua tay thông dịch viên là tay có lý luận thao thao bất tuyệt, đã được học tập trước, phổ biến trước hướng căn bản cần phải trả lời thì người bị phỏng vấn có nói bậy, thông dịch viên lại dịch đúng, Burchette “Tết” mới khám phá được.
Với những người biết tiếng Pháp hay tiếng Anh, Trung Ương Cục chỉ thu xếp cho gặp những người của họ, được Trung Ương Cục tin cậy hoàn toàn về lập trường, về lý luận Mác Lê. Mặt khác hướng trả lời đã được “đả thông” trước, không được tùy tiện trả lời theo ý nghĩ cá nhân mình.
Cho nên khi Burchette chưa về tới R, T.Ư.C đã cho mời Trần bửu Kiếm, Huỳnh tấn Phát, Trần bạch Đằng và Nguyễn văn Hiếu bên Mặt Trận (những nhân vật đó đều là đảng viên kỳ cựu, toàn là Ủy viên Trung Ương Cục) về Trung Ương Cục để họp thảo luận về cách tiếp đón, vấn đề tham quan, về sự chọn lựa người tiếp xúc và nhất là “mớm” trước cho Nguyễn hữu Thọ những câu trả lời, trình bày quan điểm phù hợp với đường lối của Đảng.
Hậu cần R, Hậu cần khu B cũng đã nhận được chỉ thị về việc “Bớt sét” đến để tham quan “tinh thần cách mạng qua sự gian khổ, chịu đựng, thiếu thốn để hoàn thành những công tác khó khăn” v.v…
Những đơn vị được chỉ định tiếp Burchette, hết cấp ủy họp, thì chính quyền họp, đoàn thanh niên lao động họp. Ban ngày lo việc sửa sang doanh trại, sửa hố, sửa hầm, quét dọn đường đi, bầy biện, thực hiện trật tự nội vụ. Ban đêm tập họp toàn đơn vị để học tập cách đi đứng, ăn nói, cách làm việc và động viên chính trị.
Ở Hậu cần khu B, như trong một màn quan sát việc chuyển gạo qua sông, và thồ thực phẩm đường rừng, họ đã giả vờ thả lỏng cho Burchette đạp xe đi một mình, không cho thông dịch theo nên Burchette tha hồ chụp hình, tha hồ nhìn thấy sự chịu đựng gian khổ quá độ, nhưng Burchette muốn nói chuyện, muốn biết ý kiến, tâm tình của chiến sĩ, Burchette thực lúng túng không biết phải làm sao. Burchette cứ khoa chân, múa tay, miệng thì ư ê, cố gắng làm cho người đối thoại hiểu mình muốn nói gì, mấy anh lính hậu cần cứ trơ mắt ếch rồi cười rũ ra. “Gian khổ mà vẫn vui cười” đó là yêu cầu đã được trình diễn dưới mắt của Burchette trong cuộc tiếp xúc một mình này.
Nói chung tất cả các nơi mà Burchette đến, công thức chuẩn bị đều y nhau.
Đến với I4, Trung Ương Cục cho rằng sinh hoạt của “nhân dân chống Mỹ Diệm” mới là hình ảnh sống động nhất, giới thiệu cho Burchette những nét đôc đáo về du kích chiến tranh. Vì vậy, để việc chuẩn bị cho thật chu đáo, không có sơ hở, lỗi lầm về mặt kỹ thuật, lúc mới đến Hố Bò, R điện cho I4 gởi gấp Burchette về R, hạn chế tiếp xúc, hạn chế tầm mắt của Burchette lại.
Khi Burchette về R rồi, chừng đó R mới chỉ thị cho I4 chọn thí điểm, chọn điển hình, chuẩn bị sẵn một khung cảnh thích hợp để cho Burchette trở lại I4 lần sau trước khi rời khỏi Hố Bò đến chiến khu. I4 tập trung nhân lực, đưa nhiều đoàn cán bộ đi nghiên cứu các địa phương. Sau cùng, vùng được chọn là Củ chi, lấy xã Trung lập làm tiêu điểm và điển hình là đội nữ du kích.
Nhưng đội nữ du kích chưa có thì làm thế nào ? Chưa có thì tạo cho nó có. I4 chỉ thị các địa phương, mỗi địa phương chọn một số thanh nữ đoàn viên dạn dỉ, gan lì nếu sẵn là nữ du kích hiện đang hoạt động càng tốt. Những thanh nữ đó được gởi ngay đến Hố Bò, để chọn lấy một tiểu đội cho học gấp rút về cơ bản quân sự và động tác cơ bản thao diễn như nghỉ, nghiêm, đi đều, quay trái, quay phải, đứng bắn, nằm bắn, yếu lĩnh xạ kích, lăn, bò, chạy v.v…
Cô em Nguyễn thị Gừng, hơ hớ 18 xuân xanh ở Trung lập được chọn làm tiểu đội trưởng. Trong khi các cô em đi học quân sự, ở nhà, du kích các nơi được tập trung đưa đến xây dựng lại hệ thống phòng thủ, làng chiến đấu và hệ thống địa đạo. Thực là một vở kịch lớn, quá đông đảo diễn viên.
Hơn tháng sau, mọi công việc chuẩn bị đã xong. Tiểu đội nữ du kích cũng đã khá thành thạo, liền trang bị mỗi chư vị một súng Carbine và 5 gấp đạn, nón vải xanh đội đầu, thắt lưng Mỹ cài đầy lựu đạn, bình ton, dép râu, bồng bị v.v… đủ cả. Cô em nào đuôi tóc cũng dài, quất qua quất lại sau lưng, Mặc đồ bà ba đen quần cột ống, thắt lưng ngoài áo, trông cũng “co” ra phết. Các cô em được đưa về Trung lập dượt lại vài hôm thì Burchette xuống đến Hố Bò. Tiểu đội nữ du kích được đưa đến trình diện, “người ta” giới thiệu rằng đó là tiểu đội nữ du kích của một xã đã từng tác chiến cừ ra phết, lập được nhiều chiến công cho nên tiểu đội này được chỉ định làm tiểu đội chiến đấu, theo bảo vệ cho Burchette trog thời gian ở I4. Tiểu đội này cũng sẽ đưa Burchette về xã mình chơi, xem các cô đánh giặc, vì xã của mấy cô đó là một “vùng yếu”, có đồn bót địch và trục lộ giao thông. Không riêng gì xã mấy cô này, những xã khác xã nào cũng đều có đội nữ du kích, vì phụ nữ Việt nam ngày nay tiến bộ vô cùng, nhất định không chịu thua nam giới bất cứ phương diện nào, giác ngộ cách mạng lại cao. Được giới thiệu, các cô cũng tập hợp một hàng dọc, so hàng điểm số, cũng quay phải, quay trái, báo cáo, chào súng. Tiểu đội trưởng Nguyễn thị Gừng cũng mang súng lục, đưa tay ngang mày chào như ai.
Burchette nghe trình bày, tường thuật đứng đờ nguời ra. Hình ảnh trước mắt đã rõ ràng quá, không tin sao được. Burchette đưa máy ảnh lên bấm lia lịa. Dĩ nhiên là Burchette phục sát đất, phục lăn ra, tưởng chừng như mình đứng trước đội nữ binh Do Thái.
Sau đó Burchette tháp tùng theo đội nữ du kích này về Trung lập phục kích đánh giặc, sống với họ hai ngày dưới chiến hào và luồn qua những địa đạo. Cũng may, hai ngày sống với đội nữ du kích này, không gặp trận đụng độ nào. Nếu có, chẳng biết tình hình lúc đó sẽ ra sao ? Và Burchette có còn sống được để mà viết phóng sự không ? Nhờ không đụng trận nào nên Burchette được người ta giải thích rằng vì uy danh và thành tích anh dũng ngoan cường, tài thiện chiến của đội nữ anh hùng du kích, giặc sợ hãi, chôn chân ở đồn bót không dám đi đâu cả. Du kích giữ làng hữu hiệu như vậy đó. Rồi quan sát hệ thống phòng ngự với những hệ thống mìn, đạp lôi, lựu đạn gài, hầm chông chằng chịt, Burchette lại càng tin hơn nữa.
Quả là nột vỡ kịch diễn khéo, đạt yêu cầu hết sức. Có lẽ, cho đến ngày nay, Burchette ngủ vẫn còn nằm mơ hình ảnh đội nữ du kích Cộng Sản Việt nam. Sau lần đó, Burchette lại được đội nữ du kích hộ tống trả trở về R, sang Namvang rồi ra Hànội. Để tuyên truyền, quảng cáo, làm hậu thuẩn cho Burchette, đài Phát thanh Hànội, đài Giải phóng, báo chí mở ra một chiến dịch nói về Burchette và chuyến đi của ông ta.
Làm như vậy để Burchette càng hài lòng, viết bài ca tụng mạnh hơn, ủng hộ mạnh hơn cái gọi là chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích ở miền Nam Việt nam nhất định thắng đế quốc Mỹ.
Hai năm sau, 1964, quen mùi, thấy làm ăn khá, Burchette trở lại khu B bằng ngõ Namvang một lần nữa. Cùng đi với Burchette có một nữ đồng chí Cộng Sản Pháp - vợ của Nguyễn đình Thi - Tổng thư ký Hội Nhà Văn Miền Bắc, làm được vài câu thơ nên người ta cũng lại quảng cáo ầm lên rằng nữ thi sĩ nổi danh đất Pháp, Madeleine Riphot, dến tham quan cuộc chiến tranh du kích miền Nam. Người ta bảo rằng Madeleine là một thi sĩ tài ba và cũng là một nhà báo đáng nể. Riêng Burchette có một giá trị lớn lao, ông ta viết mỗi chữ về cuộc chiến tranh miền Nam, báo chí thế giới phải trả đến ba bốn đôla. “Đồng chí Bớc sét” lẫy lừng như thế đấy !
======
Lý Chánh Trung "cũng kể lại cái kỳ sau giải phóng, ông cùng một phái đoàn miền Nam gồm cả trăm người được đưa ra tham quan miền Bắc. Trong đó Nguyễn Ngọc Lan đã dại dột viết bài: Hà Nội tôi thế đấy. Sau bài viết này, tờ báo Đứng Dậy bị đóng cửa, Nguyễn Ngoc Lan bị thất sủng, sau trở thành người đối lập qua những bài viết Những lá thư nhà.
Ông kể rằng lúc đi chùa Hương có chị lái đò hỏi ông: Có phải ông là giáo sư Lý Chánh Trung không? Cháu có đọc bài của chú trước 75. Cháu thích và phục chú lắm. Lần khác, có một thanh niên hô to: Trong phái đoàn có ông Lý Chánh Trung hay không? Có, có tôi đây. À bác, trước đây trong thời kỳ chống Mỹ, cháu có đọc bài chú viết. Cháu kính nể chú lắm. Ông nói thêm, không ngờ mình viết bài ở trong Nam mà một chị lái đò cũng đọc bài viết của mình. Chỉ một điều này thôi thấy dân trí miền Bắc cao hơn biết chừng nào. Ngay cả những tài liệu mật trong miền Nam cũng được phổ biến cho dân chúng đọc.
Người hiểu chuyện thì thấy đây là một màn kịch diễu quá dở. Vậy mà ông không biết, tin là thật. Trong Nam, người ta gọi cái này là thầy chạy."
(Nguyễn Văn Lục)
Đồng chí Tốp
Tháng 3 năm 1964, tại R và khu B tiếp thêm một ký giả ngoại quốc nữa. Đó là đặc phái viên của nhật báo Pravda, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Liên Xô. Vì tên ngoại quốc khó đọc, khó nói, nên đến bây giờ người ta chỉ còn nhớ cái tên tắt, cái chữ sau cùng được R phổ biến là đồng chí “Tốp”.
(...)
Date: Thu, 16 Jun 2016 18:24:32 +0000
From: datnguyen2750@att.net
To: lmcuongadam85@hotmail.com; nguyenvulh@yahoo.co.uk
Subject: bai` kha'
From: datnguyen2750@att.net
To: lmcuongadam85@hotmail.com; nguyenvulh@yahoo.co.uk
Subject: bai` kha'
trên DCV cũng có nhiều bài khá, nhiều tay còm sĩ đàng hoàng, có trình độ
Đ
Nhóm Khởi Xướng “Cuộc Cách Mạng Nhân Vị”
Nhóm Khởi Xướng “Cuộc Cách Mạng Nhân Vị”: Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Sự Trổi Dậy của Đảng Cần Lao
[Message clipped] View entire message
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét