Thứ Ba, 6 tháng 10, 2015

Võ Phiến :Sinh ngày 20/10/1925 tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định - Mất :28/09/2015

Võ Phiến

Sáng hôm nay thứ Ba, ngày 29 tháng 9, 2015 anh Việt Hưng của Việt Phố TV và họa sĩ Lưu Anh Tuấn
của Hội NATV thông báo tin nhà văn Võ Phiến đã mãn phần,  ngày thứ Hai, 28/09/2015. Tin đến tôi cảm nhận sự se lòng lại với muôn vàn nuối tiếc nhớ câu hỏi chân thật của nhà văn trẻ Lotus Diệp Minh Nguyệt hỏi tôi: "Sao những nhà văn lớn lại ra đi vậy anh?", khi tin nhà văn biên khảo André Trần Cao Tường đã mệnh chung. Ý tưởng của Lotus Minh Nguyệt chỉ hàm chứa s tiếc nuối, và rồi bây giờ là nhà văn Võ Phiến.
Thật vậy, Võ Phiến là một đại thụ văn học Việt Nam, tên thật là Đoàn Thế Nhơn. Sinh ngày 20/10/1925 tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Năm 1933, khi ông lên 8 tuổi cha mẹ ông vào Rạch Giá lập nghiệp, Võ Phiến ở lại Bình Định sống với bà nội, học trường làng, trung học ở Quy Nhơn. 1942 ra Huế học trường Thuận Hóa và bắt đầu viết văn. Bài tùy bút đầu tiên tựa đề Những Đêm Đông viết năm 1943 đăng trên báo Trung Bắc chủ nhật, ký tên Đắc Lang.

Võ Phiến còn dùng bút hiệu Tràng Thiên, bút hiệu này vốn là một bút hiệu chung của vài tác giả hợp tác với nhóm nhà văn trong Tạp chí Bách Khoa (1957-1975) sau được nhà văn Võ Phiến sử dụng cho các tác phẩm chuyển ngữ như Hăm Bốn Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà (Vingt Quatre Heures Dans La Vie d'une Femme hay Twenty-Four Hours in the Life of a Woman, của nhà văn người Áo Stefan Zweig, 1881-1942), sách dịch được in vào năm 1963. Đọc văn Võ Phiến bao la với tôi, văn ông miêu tả đời sống dồng quê dân dã Việt Nam đến những tư tưởng văn chương phương Tây, nào những Albert Camus, JP Sartre, André Malraux, Victor Hugo, Hector Malot, Gustave Flaubert,...

Trong bài viết về chủ đề "Sách và Nhà", khi nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng phỏng vấn nhà văn Võ Phiến, Võ Phiến tâm tình văn chương như sau, Võ Phiến kể:

"Đã có một thời, ở Sài Gòn ta, giới văn nghệ hễ mở miệng là toàn Sartre với Camus. Ông lại là giáo sư, dạy văn dạy triết, sớm chiều đụng đầu mấy ông này hàng ngày, chán là phải. Nhưng xin nói ngay là những điều tôi sắp đưa ra không liên quan gì đến triết học với văn chương cả. Chẳng qua chuyện đời sống.

Như ông đã biết, cha mất sớm, Sartre với mẹ về ở nhà ngoại. Ông ngoại là nhà giáo dạy Đức ngữ, cũng có soạn một cuốn sách giáo khoa được in đi in lại. Vậy ngoại là một tác giả, một hãnh diện của gia đình. Tác giả tất nhiên có tủ sách gia đình. Cậu bé Sartre từ nhỏ đã lân la vào phòng sách của ngoại, và sống những giờ mê tơi. Về già, lúc gần tuổi sáu mươi, trong cuốn Les mots, ông viết: “Tôi đã bắt đầu và chắc chắn rồi cũng sẽ kết thúc cuộc đời mình giữa các cuốn sách.” (“J’ai commencé ma vie comme je la finirai sans doute: au milieu des livres.”)

Sống và chết giữa các cuốn sách không giống như sống và chết giữa vựa lúa của một nhà nông, hay giữa kho hàng của một nhà buôn, hay giữa bàn ghế trong công thự của một viên quan lại nào đó trong guồng máy cai trị của các chế độ. Sách là thứ lạ lùng hơn nhiều. Ở một đoạn khác của tác phẩm vừa kể, ông viết: “Tôi đã tìm ra cái tôn giáo của tôi: tôi thấy không có gì quan trọng hơn là một cuốn sách. Cái phòng sách, tôi xem nó như một ngôi đền.” (“J’avais trouvé ma religion: rien ne me parut plus important qu’un livre. La bibliothèque, j’y voyais un temple.”)...

Xem bộ ông băn khoăn mãi về cái “nội dung”. Không hề gì, ông ơi. Phòng sách không phải là kho sách. Kho sách là nơi chứa sách: cốt nhiều. Phòng sách là nơi để đọc sách: cốt ta tìm thấy hứng thú say mê ở trong đó hơn 11 phút mỗi ngày.

Tủ sách của ông ngoại có thể đồ sộ, nhưng cậu bé Jean-Paul Sartre lúc bấy giờ tôi e không đọc được mấy đâu. Đêm đêm cu cậu ôm vào giường cuốn Sans famille của Hector Malot đã thuộc làu. Lớn hơn chút nữa, cậu đọc đi đọc lại hoài đoạn cuối của cuốn Madame Bovary đến nỗi thuộc từng đoạn dài, cậu thắc mắc mãi về chuyện anh chồng mất vợ vừa tìm ra được mấy lá thư và râu anh ta mọc tùm lum: tại sao vậy cà? có phải râu mọc vì thư tình không nhỉ? thắc mắc về cái vụ anh chồng nhìn Rodolphe cách ai oán: ai oán cái gì vậy cà? v.v... Cậu bé loay hoay mãi về những đoạn văn mình hiểu mà vẫn không hiểu, cậu mê tơi về cái hấp dẫn của cuộc sống bí ẩn, hàm hồ... Về già, Jean-Paul Sartre viết mấy nghìn trang về Gustave Flaubert. Có phải mấy nghìn trang nọ đã bắt nguồn mãi tận những ngày lẩn quẩn trong cái phòng sách thời thơ ấu?".


Tôi nhớ hai anh trong văn giới Phạm Kim và Phạm Quốc Bảo biếu tôi hai bộ sách quý giá, gồm những tư liệu về nhà văn Võ Phiến, là Văn Học Miền Nam và Võ Phiến Tuyển Tập.

image029

Trong Võ Phiến Tuyển Tập được nhà xuất bản Người Việt ấn hành. Bộ sách dầy cộm, tiêu biểu của những góc nhìn trong văn học Việt Nam, mà Võ Phiến là một chân dung văn chương đa diện và là một ngòi bút tận tụy góp mặt hơn nửa thế kỷ văn học, một quảng đường dài, dài hơn kiếp sống của ông Tần Thủy Hoàng (秦始皇, 259 TCN – 210 TCN),  hưởng dương 49 tuổi thôi.

Trong sự góp mặt văn học đó được nhà văn cho cảm nghĩ từ góc diện của một người Việt Nam trong hoàn cảnh khá đặc biệt trong lịch sử, thời Pháp thuộc rồi thời đất nước phân ly, rồi cuộc sống ly hương tị nạn,... Trong bài viết Đọc Nguyễn Vy Khanh về Võ Phiến qua "Võ Phiến Những năm 1960" của hai tác giả Hoàng Nam và Lưu Anh Tuấn, những tác phẩm của Võ Phiến
được Nguyễn Vy Khanh điểm qua như “Chữ Tình”, “Mưa Đêm Cuối Năm” đến lúc viết “Thư Nhà”, “Thương Hoài Ngàn Năm”, "Bắt Trẻ Đồng Xanh",  “Nguyên Vẹn”, “Quê”, “Thư Gửi Bạn”, "Đêm Xuân Trăng Sáng", "Giọt Cà Phê", ... Tôi thích khía cnh khác của Võ Phiến, ông phân biệt rõ lằn ranh Quốc Cộng, về ý thức hệ chính trị vững chắc và ông nêu tính nhân bản trong bút văn của mình.

Nhà văn Nguyễn Vy Khanh đưa ra nhận định về Võ Phiến như sau:

"Đọc Võ Phiến không dễ, vì đọc ông không phải để cho qua thì giờ. Đọc xong thường người đọc bàng hoàng, nghi ngờ, có thể ý thức mệt mỏi, lo hơn, dằn vặt hơn: những cuộc đời quê mùa, những kẻ bình thường nhưng sao phải khốn cùng, khắc khoải? Nhân vật của Võ Phiến là những con người cục mịch, quê mùa, với những cái tên gợi hình như chị Bốn Chìa Vôi, anh Bốn Thôi, Ba Càng Cua, Ấm Sứt, Hai Mỏ Gẫy, Tư Huệ Héo, gợi cảm như ông tú Từ Lâm, anh Nam Hà, Thập Tam,... Họ, nhiều người nét mặt "rầu rầu, nguội lạnh như một người ngoại cuộc", một rầu rầu bình thản hoặc rầu rầu vì lạc loài, phải sống âm thầm nhưng tâm hồn thì sôi sục đầy khắc khoải, khát vọng thường cũng rất bình thường, có khi là một nỗi cô đơn hiu hắt, có khi là những mất quân bình đáng thương hại. Họ sống cho kỳ vọng của mẹ cha hoặc sống vì người khác.

Võ Phiến không dựng những nhân vật lạc quan hoặc có cuộc sống hạnh phúc từ đầu đến cuối. Không chiến tranh thì cũng ai đó trong gia đình dòng họ xóm làng làm rốt cuộc đời lặng lẽ. Mà cái lặng lẽ này cũng đầy nghi ngờ vì ngầm chứa những oán thù, nợ nần, truân chuyên... chỉ đợi lúc bùng vỡ. Làm người dân thường như những nông dân của Võ Phiến cũng không dễ, mà những nông dân cục mịch đó cũng ngày càng biến dạng trong văn chương Việt Nam và ở ngoài đời họ cũng đô thị hóa tại chỗ với TV, ca nhạc, vật dụng thường nhật và y phục. Nhưng tâm hồn họ? Trong tình cảnh lưu vong của nhiều người Việt hiện nay, nhất là lưu vong dứt khoát không ỡm ờ, đọc chuyện nông dân của Võ Phiến lại càng thấm thía hơn, một thấm thía trong bất lực, như một dĩ vãng đã quá tầm tay với!".

Đếm lại tất cả tổng số tác phẩm của Võ Phiến có hơn năm chục cuốn trên  nhiều phạm vi văn học khác nhau như tùy bút, thơ, truyện ngắn, truyện dài, phê bình văn học, biên khảo, lý luận văn học. Võ Phiến Tuyển Tập là một công trình quý báu khi mang tất cả những nét đặc thù, những tinh hoa của nhà văn mà hôm nay chúng ta được tin buồn.

Với điều suy tư cá nhân của tôi, một hành trình văn chương hơn nửa thế kỷ Võ Phiến là một ngòi bút tôi mê thích từ thuở trung học rồi ra xừ ngoài, như vậy thì từ những trang sách của Võ Phiến tiêu biểu cho những bài viết tùy bút, những truyện ngắn, những bài biên khảo, tham luận, phê bình văn học cho tôi sự học hỏi, thích thú.

Trong làng văn hải ngoại còn hai đại thụ văn học khác, tuổi Quý Hợi 1923, niên kỷ 92, là Thinh Quang và Doãn Quốc Sỹ, hai cụ vẫn còn khỏe. Cầu Trời cho ý tưởng của Lotus Minh Nguyệt ở về khía cạnh tích cực vậy. Khi bạn bè văn chương chúng tôi thực hiện Sách Kỷ Niệm Về Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ, do Văn Đàn Đồng Tâm ấn hành, t
ôi có xin bài của nhà văn Võ Phiến. Hôm ra mắt sách DQS có ông bà Võ Phiến đến tham dự, tôi đến chào họ. Nhà văn phục sức lịch lãm, khoác veston xám nhạt và đầu đội mũ "kết" (casquette) như mấy ông Tây tài tử cinéma Jean Gabin hay André Bourvil. Có lúc ông bông đùa hỏi: "Chừng nào anh làm sách cho tôi?". Tôi cười hỏi lại: "Bác cho phép con mới làm được chứ!", chúng tôi cùng cười bắt tay. Trong cái kỷ niệm cũ có đọc Võ Phiến, tôi có cảm nhận là  nói chuyện thoải mái với ông như một người đã nói chuyện ngoài đời như khi tâm sự với ông mang vẻ bên ngoài hiền lành, nhưng bên trong bộ óc ấy là những ý tưởng văn học khó tìm được một Võ Phiến thứ hai, tôi lãng đãng với tâm thức như vậy.

Trong bài viết của Nguyễn Vy Khanh, ông đề cập sự tài ba của bút pháp  Võ Phiến, là lối viết được ví là “chẻ sợi tóc làm tư làm tám”, hàm ý là văn ông trình bày những phần sâu thẳm của nội tâm con người, sự thành công khi khám phá được những góc cạnh sâu thẳm của kiếp nhân sinh của chúng ta. Tôi suy tư vì điều này không phải dễ, những trăn trở giằng co trong cuộc sống, như nhuốm triết tính khi ta đi tìm trong những điều bình thường nhưng lậi bất thường, rồi như khi tìm những điều hợp lý nhưng lại nghịch lý. Chính Võ Phiến đã thú nhận văn ông chịu ảnh hưởng tư tưởng của Marcel Proust (1871–1922), tác giả của bộ tiểu thuyết “Đi Tìm Thời Gian Đã Mất” (À La Recherche du Temps Perdu, hay In Search of Lost Time). Tiểu thuyết này được xếp vào trong số 10 cuốn tiểu thuyết được thanh niên Pháp ưa thích nhất trong thế kỷ 20. Tạp chí Time cũng bình chọn tác phẩm này nằm trong số mười cuốn sách vĩ đại nhất mọi thời đại (The 10 Greatest Books of All Time, printed on the Time magazine). Điều này cho thấy sự hiểu hiểu biết của Võ Phiến từ cánh đồng quê Qui Nhơn hay Rạch Giá bung ra tới chân trời Âu châu xa xăm kia.

Nhà văn Võ Phiến.

Nhà văn Nguyễn Quang (phu quân của nhà văn Minh Đức Hoài Trinh) có kể tôi nghe chuyện của thế kỷ trước khi
đôi uyên ương nhà văn này sở hữu một căn nhà có hoa anh đào có trúc xanh vàng trước ngỏ, được gọi là Ngỏ Trúc. Nó là nơi mà  Nguyễn Quang và Minh Đức Hoài Trinh tiếp đón bạn bè, giới tao nhân mặc khách ghé qua hàn huyên văn chương, văn học. Người em gái của nhà văn Võ Phiến là cô Diệu Ngọc (bạn thân thiết với Minh Đức Hoài Trinh) và nhà văn Võ Phiến vẫn thường ghé qua  Ngỏ Trúc. Một kỷ niệm với Võ Phiến theo nhà văn Nguyễn Quang là vào năm 2000 khi nhà văn Minh Đức Hoài Trinh là chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, bà tiến cử nhà văn Võ Phiến tranh giải văn chương Nobel Stockholm, kết quả giải năm 2000 nặng màu sắc chính trị. Tổ chức này cần sự công minh, vì người của phe ta chưa được giải văn chưong Nobel nào cả, ngoại trừ viên CSVN ác ôn đáng ghét được Nobel Stockholm ban cho nửa giải Nobel "hòa bình" dỏm vào năm 1973, chỉ báo hại dân tộc Việt Nam thêm.

Cần nói thêm người đoạt giải
văn chương Nobel 2000 là nhà văn Cao Hành Kiện, (Gao Xingjian, 高行健, sinh 4 tháng 1 năm 1940), là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình người Trung Hoa đầu tiên và là công dân Pháp thứ 13 được trao Giải Nobel Văn học trong suốt 100 năm qua. Ông cũng còn được biết đến với tư cách là một dịch giả, đạo diễn sân khấu và họa sĩ. Cao Hành Kiện đã cổ võ, đấu tranh cho quyền từ do sáng tác cho giới văn nghệ. Chính phủ Tàu HD-981 đã coi ông là một phần tử "phản động" chống đối nhà nước Bắc Kinh và các tác phẩm của ông đã bị cấm chỉ lưu hành từ năm 1986. Ông đã từ bỏ Đảng Cộng sản Tàu HD-981 vào năm 1989 sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Năm 1988 ông sang Pháp xin tị nạn chính trị và nhập quốc tịch Pháp từ 1998, hiện cư ngụ tại ngoại ô Paris. Tôi lẩm bẩm tại sao là Cao Hành Kiện mà không là Võ Phiến. Mấy ông giám khảo trong Ủy Ban Chấm Giải tại Nobel Stockholm thiên vị biến cố Thiên An Môn, lại mang nhãn hiệu "Littérature française et savants parisiens", là lá bùa đoạt giải Nobel. Đả đảo Nobel Stockholm, Bravo Võ Phiến!


Nào, bây giờ thử bàn về tác phẩm khác liên quan đến Võ Phiến, ôm bộ sách Văn Học Miền Nam (Tổng Quan) sẽ mỏi tay, gồm 7 tập, một công trình sưu khảo công phu của Võ Phiến. Văn Học Miền Nam: Tổng Quan gồm có ba phần chính, không kể 2 phần Lời nói đầu dẫn nhập và phần Kết luận, tuần tự như sau:

Phần 1: Khái quát như trong phần mà tác giả khảo lược một số vấn đề chính trong sinh hoạt văn học miền Nam như: nhà văn, độc giả, và xuất bản; sau đó, ông lần lượt trình bày các giai đoạn chính và phân tích những đặc điểm nổi bật nhất; cuối cùng, đối chiếu sơ lược văn học miền Nam với văn học miền Bắc và văn học tiền chiến.

Phần 2: Các giai đoạn mà tác giả đào sâu vào các đặc điểm nổi bật trong từng giai đoạn: 1954-63 và 1964-75.

Phần 3: Các bộ môn văn học mà tác giả phân tích năm bộ môn chính là tiểu thuyết, tuỳ bút, thi ca, kịch và ký. Đối với mỗi bộ môn ông duyệt qua bằng cách phân tích chi tiết của sự kiện hầu đ
ộc giả thấu rõ quan điểm ông trình bày.


Trong lãnh vực nghiên cứu văn học ở hải ngoại từ sau năm 1975, bộ Văn Học Miền Nam mang tính tham khảo đối với những ai cần đến nó như sự góp nhặt các sự kiện văn học. Mặc dù chính nó cũng tạo ra nhiều tranh cãi sôi nổi, dù là bất đồng hay đồng thuận. Cái giá trị không chối cãi là nó không những giúp người đọc nhận diện một khía cạnh khác thường trong tài năng văn chương của Võ Phiến mà còn cung cấp cho người đọc một khối tài liệu dồi dào, thật đồ sộ và đáng tin cậy về một nền văn học ngỡ đã bị quên lãng. Do vậy diễn trình văn học Miền Nam từ năm 1954 đến 1975 mang ý nghĩa như thế thì bộ sách Văn Học Miền Nam của nhà văn Võ Phiến là một tác phẩm giá trị, vì tác phảm này đã được đón nhận nồng nhiệt. Bộ sách đã được tái bản nhiều lần.

Đã có nhiều nhà văn viết về nhận định tác phẩm của Võ Phiến, v
à sau đây là phần trích dẫn trong bài viết Thế Giới Nhân Vật của Võ Phiến. Đây là bài phê bình văn học tỉ mỉ của nhà văn Thụy Khuê, Paris:


"Nghệ thuật của Võ Phiến bộc lộ trong những không gian nhỏ, khép kín, từ truyện ngắn đến truyện dài. Có thể nói, bốn tác phẩm Giã từ, Lại thư nhà, Một mình, và Đàn ông, đã tạo nên sườn chính của tư tưởng và nghệ thuật Võ Phiến. Mỗi tác phẩm mang một sắc thái, nhưng đều đạt đến đỉnh cao nghệ thuật, một nghệ thuật tỉ mỉ, sâu sắc. Ngòi bút ông xoáy sâu vào những cử chỉ nhỏ nhặt, vô nghĩa nhất để vẽ nên toàn bộ con người. Thế giới nhân vật của ông được hình thành qua những chân dung rõ nét, cá tính bộc lộ sâu sắc, luôn luôn bị dày vò trong ám ảnh nhục dục. Về mặt tư tưởng, Võ Phiến đi sâu hơn nữa về phía vô thần và duy vật. Về cách thể hiện, ông chuyển từ lối viết truyền thống, sang lối viết hiện đại hơn, tức là ông không còn đứng ở vị trí bên ngoài của người kể chuyện mà dần dần ông thâm nhập vào trong da thịt nhân vật để mô tả. Giã từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên, một truyện vừa, khoảng 80 trang, là sự bắc cầu giữa hai lối viết truyền thống và hiện đại. Lại thư nhà, hơn 60 trang, là tác phẩm chủ yếu, cô đọng không gian Võ Phiến, đưa chúng ta vào thế giới những nhân vật của ông. Đàn ông, chiếu vào những nhân vật ấy, nói đúng hơn là những người đàn ông ấy, qua con mắt của Chị Lê, người đàn bà làm điếm, nhìn khách hàng của mình dưới những khía cạnh trần trụi nhất. Chị Lê tìm ra “cái chung” của đàn ông: trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn là nhục dục, chỉ là nhục dục, là cõi mà họ tự do nhất, cõi mà họ sống thật nhất với chính mình. Một mình phân tâm nỗi cô đơn bệnh hoạn của con người khi chỉ còn có mình đối diện với chính mình.

Võ Phiến dùng những nhận xét tế vi, lấy chi tiết làm nên đại sự, để thăm dò lòng người dưới nhiều hình thức: Bằng phân tâm của Freud chiếu vào nội tâm u uẩn, ẩn ức tính dục của nhân vật. Bằng biện pháp hoán dụ, ông chiếu rọi vào một phần của cơ thể, để nói lên ẩn ức dục tính toàn diện của con người, những người sống ngoài lề xã hội, từ người tù đến gái điếm, từ già đến trẻ. Nhờ ảnh hưởng triết học hiện sinh, con người nhìn lại chính mình, không ai thoát khỏi sự cô đơn. Với những chi tiết chằng chịt, Võ Phiến dệt nên cấu trúc nội tâm phức tạp và bi đát của con người. Lại thư nhà tiêu biểu cho cấu trúc toàn bộ tiểu thuyết của Võ Phiến. Không hiểu sao ông lại xếp Lại thư nhà vào loại tùy bút. Thực ra, đây là một truyện vừa và cũng là tác phẩm nền móng, xây dựng nên vũ trụ tiểu thuyết của ông, với nhân vật Bốn Thôi. Lại thư nhà tạo ra không khí và bối cảnh Võ Phiến, thế giới của những kẻ ở ngoài lề. Bốn Thôi tuy ở trong xứ, nhưng đã bị cách ly với người khác, với thế giới chung quanh. Bốn Thôi là kẻ ly hương trong thân phận mình, là đại diện sâu xa nhất cho những kẻ sau này phải bỏ nguồn cội đi tha phương cầu thực..."


Sau cùng, những ý tưởng riêng tư về khía cạnh tình yêu nậng nghĩa phu thê sâu đậm của
nhà văn Võ Phiến, người viết bài xin trích dẫn một điểm đặc sắc mang tính nhân bản mà qua nét bút của nhà văn Túy Hồng viết về một nhà văn bạn trong nhóm Bách Khoa, nhà văn Võ Phiến vừa ra đi. Bài viết có đề cập đến Lê Tất Điều, Mai Thảo, Thanh Nam,... và dĩ nhiên có Võ Phiến, bà kết luận một nhận xét quý giá về cố nhà văn này, một đại thụ văn học miền Nam hay của nước VNCH của chúng ta như sau: "Tôi chưa thấy một người đàn ông nào thương vợ nhiều như thế, yêu vợ kỹ như thế. Vợ anh, vợ anh... cái miệng cứ tía lia vợ anh vợ anh, làm như người ta sắp giựt mất. Bà Võ Phiến tên cúng cơm là Viễn Phố."

Từ tên vợ, ông đặt bút hiệu cho văn chương mình qua cách nói lái trại đi tí ti. Bravo hai bác Võ Phiến và Viễn Phố. Ôi, thật quý hóa. Ngày tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Hiền tôi cung kính vị nhạc sĩ lão thành này với ý niệm trân quý về người phối ngẫu của ông. Và giờ đây là nhà văn Võ Phiến, hay bác
Võ Phiến.

Cầu chúc bác Võ Phiến về cõi trên được bình an vĩnh cửu.

Trần Việt Hải

Nhà văn Võ Phiến qua đời, thọ 90 tuổi.



Võ Phiến tên thật Đoàn Thế Nhơn (sinh 20 tháng 10 năm 1925 tại huyện Phù Mỹ, Bình Định) là một nhà văn Việt Nam. Ông là tác giả của 4 tiểu thuyết, 9 tập tuỳ bút, nhiều tập truyện ngắn, một tập thơ và nhiều tác phẩm phê bình tiểu luận. Ông còn có bút danh là Tràng Thiên.

Tiểu sử

Nhà văn Võ Phiến.
Võ Phiến là con của ông giáo Đoàn Thế Cần và bà Ngô Thị Cương. Ông có người em ruột là Đoàn Thế Hối (sinh 1932) cũng là nhà văn với bút hiệu Lê Vĩnh Hoà.

Khoảng 1933, bố mẹ cùng em ông xuống Rạch Giá còn ông vẫn ở lại Bình Định với bà nội. Ông theo học trường làng và trung học ở Quy Nhơn.

Năm 1942, ông ra Huế học trường Thuận Hóa và bắt đầu viết văn. Bài tùy bút đầu tiên Những đêm đông được ông viết năm 1943 và đăng trên báo Trung Bắc Chủ Nhật.

Năm 1945, Võ Phiến đi bộ đội cho đến năm 1946 thì ông ra Hà Nội học trường Văn Lang. Năm 1948, ông kết hôn với bà Võ Thị Viễn Phố và dạy học ở trường trung học bình dân Liên Khu V.

Cuối năm 1954, Võ Phiến ra Huế làm việc tại Nha Thông Tin một thời gian rồi chuyển vào lại Quy Nhơn, tại đây ông tự xuất bản hai tác phẩm đầu là Chữ tình (1956) và Người tù (1957), gửi bài đăng trên hai tạp chí Sáng Tạo và Bách Khoa.

Sau tác phẩm Mưa đêm cuối năm (1958, Sài Gòn), Võ Phiến bắt đầu được biết đến. Ông vào làm việc tại Sài Gòn và cộng tác với các báo Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Khởi Hành, Mai, Tân Văn, Bách Khoa...

Năm 1962, Võ Phiến lập nhà xuất bản Thời Mới.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông định cư tại Los Angeles, Hoa Kỳ.

Võ Phiến tiếp tục xây dựng nền văn học Việt Nam tại hải ngoại, xuất bản tập san Văn Học Nghệ Thuật từ 1978 đến 1979, và từ 1985 đến 1986.

Hiện ông sống tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ.

Ông qua đời lúc 7 giờ tối ngày 25/09/2015 tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 90 tuổi.

(theo nguồn Wikipedia)




Thế giới nhân vật của Võ Phiến


Phê Bình Văn Học Thụy Khuê

Giai đọan thứ ba: Phi thời gian. Từ 1965 trở đi, một số nhân vật tiểu thuyết của Võ Phiến thoát khỏi môi trường chiến tranh hoặc ly hương, để đứng riêng như những con người trần trụi, trực diện với nội tâm. Võ Phiến đã viết những tác phẩm giá trị như Một mình (1965) và Đàn ông (1966). Trong Một mình lấp ló ảnh hưởng triết học hiện sinh, Một mình là một thứ Buồn nôn của Võ Phiến: Con người nhận diện chính mình trong sự cô đơn gần như tuyệt đối.

Ở hải ngoại, Võ Phiến viết truyện dài Nguyên vẹn in năm 1978 về cuộc ly hương thứ nhì: từ Sài Gòn sang Mỹ. Nhưng Nguyên vẹn không đạt được nghệ thuật ở những tác phẩm trước, Võ Phiến đã không tạo được “không khí” Sài Gòn sau 75, có lẽ vì lúc đó ông đã đi rồi; hơn nữa, Võ Phiến không thoải mái trong những bối cảnh rộng lớn với nhiều nhân vật.

*

Nghệ thuật của Võ Phiến bộc lộ trong những không gian nhỏ, khép kín, từ truyện ngắn đến truyện dài. Có thể nói, bốn tác phẩm Giã từ, Lại thư nhà, Một mình, và Đàn ông, đã tạo nên sườn chính của tư tưởng và nghệ thuật Võ Phiến. Mỗi tác phẩm mang một sắc thái, nhưng đều đạt đến đỉnh cao nghệ thuật, một nghệ thuật tỉ mỉ, sâu sắc. Ngòi bút ông xoáy sâu vào những cử chỉ nhỏ nhặt, vô nghĩa nhất để vẽ nên toàn bộ con người. Thế giới nhân vật của ông được hình thành qua những chân dung rõ nét, cá tính bộc lộ sâu sắc, luôn luôn bị dày vò trong ám ảnh nhục dục. Về mặt tư tưởng, Võ Phiến đi sâu hơn nữa về phía vô thần và duy vật. Về cách thể hiện, ông chuyển từ lối viết truyền thống, sang lối viết hiện đại hơn, tức là ông không còn đứng ở vị trí bên ngoài của người kể chuyện mà dần dần ông thâm nhập vào trong da thịt nhân vật để mô tả. Giã từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên, một truyện vừa, khoảng 80 trang, là sự bắc cầu giữa hai lối viết truyền thống và hiện đại. Lại thư nhà, hơn 60 trang, là tác phẩm chủ yếu, cô đọng không gian Võ Phiến, đưa chúng ta vào thế giới những nhân vật của ông. Đàn ông, chiếu vào những nhân vật ấy, nói đúng hơn là những người đàn ông ấy, qua con mắt của Chị Lê, người đàn bà làm điếm, nhìn khách hàng của mình dưới những khía cạnh trần trụi nhất. Chị Lê tìm ra “cái chung” của đàn ông: trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn là nhục dục, chỉ là nhục dục, là cõi mà họ tự do nhất, cõi mà họ sống thật nhất với chính mình. Một mình phân tâm nỗi cô đơn bệnh hoạn của con người khi chỉ còn có mình đối diện với chính mình.

Võ Phiến dùng những nhận xét tế vi, lấy chi tiết làm nên đại sự, để thăm dò lòng người dưới nhiều hình thức: Bằng phân tâm của Freud chiếu vào nội tâm u uẩn, ẩn ức tính dục của nhân vật. Bằng biện pháp hoán dụ, ông chiếu rọi vào một phần của cơ thể, để nói lên ẩn ức dục tính toàn diện của con người, những người sống ngoài lề xã hội, từ người tù đến gái điếm, từ già đến trẻ. Nhờ ảnh hưởng triết học hiện sinh, con người nhìn lại chính mình, không ai thoát khỏi sự cô đơn. Với những chi tiết chằng chịt, Võ Phiến dệt nên cấu trúc nội tâm phức tạp và bi đát của con người.


Lại thư nhà tiêu biểu cho cấu trúc toàn bộ tiểu thuyết của Võ Phiến. Không hiểu sao ông lại xếp Lại thư nhà vào loại tùy bút. Thực ra, đây là một truyện vừa và cũng là tác phẩm nền móng, xây dựng nên vũ trụ tiểu thuyết của ông, với nhân vật Bốn Thôi. Lại thư nhà tạo ra không khí và bối cảnh Võ Phiến, thế giới của những kẻ ở ngoài lề. Bốn Thôi tuy ở trong xứ, nhưng đã bị cách ly với người khác, với thế giới chung quanh. Bốn Thôi là kẻ ly hương trong thân phận mình, là đại diện sâu xa nhất cho những kẻ sau này phải bỏ nguồn cội đi tha phương cầu thực

Lại thư nhà, tuy được tác giả xếp vào loại tùy bút, nhưng chỉ vài trang đầu tạm có tính tùy bút: ông bàn phiếm về vài câu ca dao Bình Định và giới thiệu món mắm cua chua, đặc sản Bình Định. Đó là những trang vào truyện, để giới thiệu anh Bốn Thôi và người vợ thứ hai có “bàn tay quý giá” biết làm mắm cua chua.

Thế giới Võ Phiến bắt đầu từ nhân vật Bốn Thôi, nhưng bắt nguồn từ người bà: Bà tôi. Hình ảnh bà nội Võ Phiến, người đã nuôi ông từ thuở nhỏ. Bà tôi với cái dĩ vãng “tối lờ mờ” mỗi lần kể lại một mảng chuyện cũ bao giờ cụ cũng bắt đầu bằng hai chữ “mọi lần”. Cứ mỗi lần có “mọi lần” là lại có chuyện. Và trong những “mọi lần” như thế một nhân vật mới lại xuất hiện, mỗi thứ có một bản sắc, một sự tích riêng. Chính ở những “mọi lần” đó, phát sinh Võ Phiến, nhà văn duy vật đích thực đầu tiên của Việt Nam. Bà là nguồn, cháu là động cơ phát xuất nhân vật.

Những nhân vật ấy là ai: Là ông bá hộ Thành, là bà cử Tạ, là ông tú Từ Liêm… nhưng còn có thể là những thứ khác hẳn, như mắm, chẳng hạn. Mắm cũng từ bà:

“Trong thuả “mọi lần” như thế, rập rình rất nhiều ông tú ông cử, những người từng làm vinh dự cho “gánh” họ Huỳnh của bà tôi. Tuy nhiên tôi chú ý nhất đến các món đồ ăn. Đồ ăn của “mọi lần” có những món kỳ quặc. Bà tôi kiêu hãnh kể rằng bà đã từng có thể dùng bột trắng pha màu rực rỡ bắt hình bánh cỗ đồ bát bửu: bầu rượu, cây bút, cái tù và…, đã từng luộc những con gà và sửa soạn cho chúng nó thành hình ngư, tiều, canh, mục…, đã làm những chiếc bánh tét nhân chữ hạnh, chữ thọ, màu đỏ màu xanh, đã gói những cuốn chả mà khi cắt ra mỗi lát đều có hoa đỏ hoa vàng v.v… (…)

Nhưng tại sao bên cạnh những cầu kỳ sang trọng như vậy, “mọi lần” cũng lại dung nạp rất nhiều mắm? Cảnh đói khổ với những điều xa xỉ của chỗ quyền quý kia làm cách nào mà tiếp xúc nhau mật thiết, dung hòa với nhau? Bà tôi làm sao có thể tưởng nhớ đến con gà Lã Vọng lại vừa có thể thông thạo và tha thiết với các món mắm mặn? Đó là chỗ mâu thuẫn (…)

Về già, đáng lẽ bà được hoàn toàn thảnh thơi, không phải lo lắng gì nữa về sự sinh sống trong gia đình, thì rốt cuộc bà tôi vẫn có hai mối bận rộn, đó là rác và mắm”. (Tùy bút 2, trang 66-67)

Bà chính là nguồn cội các sự thể và nhân vật. Bà cụ suốt đời chỉ chăm có hai chuyện: ăn uống và rác rưởi, như thể phần dạ dày và phần phế thải là hai lo toan chính của bà cụ. Bà cụ chính là mẹ đẻ của tâm hồn duy vật. Bởi bà cụ đã chú ý đến cái thiết yếu nhất của con người là cái dạ dày. Bà vừa là ngọn nguồn của mắm, làm ra mắm, vừa phản ảnh tâm hồn thực tiễn của người Bình Định nói riêng và người Việt Nam nói chung. Anh Bốn Thôi sở dĩ được bà cụ chú ý đến bởi vì trong sáu người vợ của Bốn Thôi chỉ có mỗi mình chị Lộc, người vợ thứ hai biết làm mắm.

Như thế có thể nói rằng, trong vũ trụ của Võ Phiến hai yếu tố quan trọng nhất là đàn bà và mắm. Và hai yếu tố này sẽ chi phối toàn bộ tác phẩm của ông, từ tùy bút đến truyện ngắn truyện dài. Và cũng chính ở tác phẩm Lại thư nhà mà chúng ta có thể nhìn thấy phát xuất đó. Trong giang sơn Võ Phiến, người cầm đầu, người cai trị là đàn bà chứ không phải là đàn ông: một vũ trụ mẫu hệ và duy vật, phát sinh từ người bà. Bà tôi.

Trong Lại thư nhà, bà tôi và các cô là thế giới của tác giả. Bên cạnh đó có thế giới Bốn Thôi, cũng lại là một thế giới đàn bà với sáu người vợ liên tiếp. Thế giới thứ nhất dưới quyền đô hộ của bà tôi. Thế giới thứ hai, nổi bật là chị Lộc, người vợ thứ nhì. Chị Lộc kẻ đứng mũi chịu sào cả về vật chất lẫn tinh thần và khi chị Lộc chết, Bốn Thôi trở thành kẻ bất lực hoàn toàn, cả thân xác lẫn tinh thần.

Trong Đàn ông, người lãnh đạo tinh thần là chị Lê và nhân vật sa đọa là ông tú Từ Lâm và những người đàn ông. Võ Phiến dùng cái nhìn của một người đàn bà giang hồ để vẽ chân dung những người đàn ông. Họ đều gặp nhau ở “chỗ ấy”. Từ trẻ (Tạo) đến già (cụ tú Từ Lâm), “mọi đau khổ, cảm xúc, rung động cao thượng hay ham muốn yếu hèn … đều đưa người đàn ông đến chỗ gặp gỡ ấy”. Như thể một khi đã mất hết, dường như đàn ông chỉ còn có sinh lý là cứu cánh. Võ Phiến đã đào sâu xuống những đau khổ, u uất trong những thân phận đàn ông sa cơ, thất vận, phiêu bạt, bị bứt khỏi cỗi rễ của mình. Ông xóa tiệt những ảo ảnh về người đàn ông, từ già đến trẻ, phơi họ trần truồng trực diện với những đớn đau và ham muốn không giải quyết được.

Trong Một mình, nhân vật Hữu là một gã mạnh khoẻ, có công ăn việc làm, nhưng dần dần Hữu đi vào tình trạng bệnh tưởng, suy nhược, mất mình trong một thứ sa đoạ tinh thần không thể nào cứu vãn nổi.

Võ Phiến đưa ra một vũ trụ mà đàn bà luôn luôn làm chủ tình thế ở bất cứ hoàn cảnh nào. Những người đàn bà này thường có đầu óc thực tiễn, họ làm chủ hũ mắm, làm chủ rác rưởi, làm chủ thân xác. Chính họ nắm bộ máy sinh hoạt và sinh dục của đàn ông. Cái thế giới thực tiễn bao gồm các hoạt động phần dưới của cơ thể này có tên là thế giới duy vật.

Võ Phiến hầu như không đả động gì đến các sinh hoạt tinh thần, hoặc khi ông nói đến chỉ là để miả mai châm biếm nội dung những lời bàn phiếm, những cãi vã vô bổ về thời sự của những người đàn ông.

Trong một đất nước chiến tranh, người ta chỉ quen bàn đến các đại sự, đến tổ quốc, đến những lý tưởng cao siêu, hùng khí ngùn ngụt. Nam tính và hùng tính được phô trương mãnh liệt ở cả hai miền đất nước. Võ Phiến đưa ra một thế giới đàn ông, vặt vãnh, ăn bám, bất lực, tê liệt và sa đoạ. Ông đã đi ngược với niềm tin thời đại, chống lại hùng khí chiến tranh và đó là giá trị nhân bản cao nhất mà Võ Phiến đạt được với bức chân dung bi đát của xã hội qua ngòi bút mỉa mai châm biếm chua xót cực cùng.

Sự vong thân của con người khi bị bứt khỏi nguồn cội.

Tiểu thuyết của Võ Phiến chiếu vào sự tha hoá của con người, qua bốn nhân vật tiêu biểu, phản ánh bốn giai cấp: anh Bốn Thôi, trong Lại thư nhà, giai cấp bần nông, ông Ba Thê Đồng Thời trong Giã từ, giai cấp trung lưu tiểu tư sản, ông tú Từ Lâm, trong Đàn ông, giai cấp nhà nho, và Hữu trong Một mình, giai cấp trí thức thành thị.

Nhân vật Ba Thê Đồng Thời trong truyện Giã từ, biểu hiện thành phần tiểu tư sản ăn bám. Ông Ba Thê Đồng Thời không làm cái gì cả, ông chỉ sống vào vốn cũ, tức là cái thời mập mờ chẳng biết theo kháng chiến hay theo Pháp. Cái quá khứ rắm rối của ông, không mấy ai biết rõ, và ông cũng để cho bí mật bao trùm lên cái quá khứ trù phú ấy, như một cái nhà băng riêng và từ đó ông rút tiền ra tiêu dần. Nhờ cái quá khứ nhà băng ấy mà ông có được nhiều người quen tương đối khá giả hoặc làm lớn và cả cuộc đời còn lại, ông viết thư cho những người quen cũ vay tiền, thư ông viết luôn luôn bắt đầu bằng chữ “se a mi” (cher ami). Ba Thê Đồng Thời là sự tha hoá của những người nhập nhoạng, biết dăm ba câu tiếng Pháp, hai mang, bên nào cũng theo, miễn sao trục lợi. Thành phần này có lẽ rất đông trong xã hội, và chính nó đục nước béo cò đã nuôi dưỡng chiến tranh.

Ông tú Từ Lâm trong truyện Đàn bà, biểu hiện môt thành phần khác, thành phần đã qua cửa Khổng sân Trình, biết đôi chữ thánh hiền, để cho người đời trọng vọng. Nhưng nay ông cũng theo thời mới, ông mặc Tây, đeo kính râm, khoác khăn phu la, ông phê bình thời sự, ông nói sử sách kim cổ. Chị Lê, cùng quê Bình Định với ông, là người định mệnh trôi dạt vào Sài gòn, làm điếm. Nếu ông Ba Thê Đồng Thời chỉ ăn bám vào những người có tiền có thế lực, thì ông tú Từ Lâm còn xuống dốc một mức nữa, ông ăn bám cả vào người đàn bà lỡ vận đáng tuổi con cháu ông. Chi Lê nuôi ông, cả cơm ăn lẫn thể xác. Ông tú Từ Lâm là một trong những nhân vật đớn đau nhất mà tiểu thuyết Việt Nam đã sản xuất ra. Một sự xuống dốc cốt cách, trang trọng, gần như trịch thượng của thành phần chữ nghiã thánh hiền. Và như thế Võ Phiến đã gần như tiên đoán được những gì xẩy ra cho thành phần trí thức trong thời điểm về sau.

Trong Một mình, nhân vật chính là Hữu, một công chức thuộc lớp người trung niên, tương đối tân tiến. Hữu khác hẳn hai người trước, anh ta có học, ở thị thành và đi làm trong vị trí xác định, lương bổng vững vàng. Nhưng Hữu cũng không hơn gì những người kia. Vì sao?

Một mình viết năm 1963, không biết ở thời điểm ấy, Võ Phiến tiếp cận triết học hiện sinh như thế nào, nhưng Hữu là nhân vật tiểu thuyết đầu tiên của ông có cái nhìn hiện sinh. Nếu trong cuốn La nausée-Buồn Nôn, Sartre mô tả Roquentin như một nhân vật không ngừng ý thức thấy thân xác mình và ý thức ấy càng rõ, thì anh ta càng cảm thấy ghê tởm. Cảm giác buồn nôn là trạng thái xẩy ra khi con người ý thức được sự hiện hữu của thân xác mình. Sartre thuật lại cái cảm tưởng buồn nôn đó, trong đầu một gã đàn ông, mà sự cô đơn và nhàn rỗi, khiến hắn chú ý đến những dữ kiện sống sượng nhất của đời sống.

Trong Một mình của Võ Phiến không thấy buồn nôn gì cả, nhưng Hữu cũng là một công chức sống dư giả, nhàn rỗi, vì nhàn rỗi nên càng ngày anh ta càng soi thêm vào cái cơ thể mình để xem nó hoạt động như thế nào, và Hữu luôn luôn thấy mình bệnh. Càng ngắm nhìn sờ mó, soi xét thể xác mình, Hữu càng thấy nỗi khó chịu gia tăng, và sự nhận thức của anh ta theo đà kéo sang người vợ và anh ta cũng thấy Quỳnh đáng ghét, nếu không muốn nói là “buồn nôn”, hiểu theo nghĩa của Sartre. Từ đó Hữu quyết định tạm thời ngừng hoạt động sinh lý với vợ trong hai tháng. Võ Phiến theo sát Hữu ngày đêm: từ những câu chuyện vô thưởng vô phạt ban ngày ở sở, ở nhà, đến những suy nghĩ, những động tác đêm hôm trên giường với vợ hay với cô gái điếm. Tất cả được ghi lại hết không bỏ sót mảy may. Hữu càng tiến sâu vào sự sa đọa tinh thần và thể xác, càng thấy rõ mình chỉ có “một mình”, không thể có một thứ “công-tắc” nào khác: không ai hiểu, không ai yêu. Quỳnh làm bổn phận người vợ. Nga cô gái điếm chung đụng với Hữu vì tiền. Sự cô đơn của Hữu, kẻ thấy mình chỉ có độc “một mình” trong thế giới hiện hữu xung quanh, là một thử nghiệm rất mới mà nhà văn đưa ra ở thời điểm 1963.

Nhân vật đặc biệt nhất là anh Bốn Thôi. Bốn Thôi vừa là những dư thừa cặn bã mà xã hội khinh bỉ thải ra, nhưng đồng thời Bốn Thôi cũng lại là căn cước, là linh hồn và thể xác của cái xã hội đó, thậm chí là thần tượng, là anh hùng của xã hội đó nữa. Một xã hội đạo đức giả trốn mình trong các giá trị bệnh hoạn, không tưởng, gọi chung là tổ quốc. Phải bảo vệ tổ quốc. Nhưng thật ra cả hai bên đều xâu xé tổ quốc, đều bắn phá tổ quốc, đều dày xéo tổ quốc bằng bom đạn ngoại bang, bằng chính bàn tay mình bóp cò súng người.

Những nét trầy trụa của tổ quốc khắc trên mặt Bốn Thôi: “Ngót hai mươi năm trời rồi, gần như hồi nào anh cũng phải cầm vũ khí trong tay: anh né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ… Và anh cũng lại đánh trả nữa. Và nét mặt anh thì lúc nào tuồng như cũng rầu rầu, nguội lạnh như một người ngoại cuộc.

Vậy mà những hoạt động của anh đã làm ra tình hình của xứ sở. Ở Hoa-thịnh-đốn, ở Mạc-tư-khoa, ở Bắc-kinh, Tân-đề-li, Vọng-các, Ba-lê v.v… ở khắp các nơi trên thế giới người ta theo dõi anh, bàn tán về anh. Người ta đem anh ra so sánh với người dân Đức ở Bá-linh, người dân Lào ở Vạn-tượng… người ta dòm ngó, dò xét cử chỉ của anh, cân nhắc, đánh giá sự can đảm của anh. Xung quanh hành động của anh chắc chắn có những cuộc mặc cả, những trù hoạch bố trí, những mưu mô âm thầm giữa nước này nước nọ. Và cũng có cả những lời hô hào, cổ võ, những tuyên bố lớn tiếng về nhiều vấn đề quan trọng, lý tưởng cao đẹp” (Tùy bút 2, trang 114-115).

Đấy là mặt tiền, mặt thấy được, mặt “quốc tế”. Về mặt hậu, Bốn Thôi hay tổ quốc hiện ra như một gã dớ dẩn, gã khùng trong làng. Anh có sáu đời vợ, nhưng anh ta lại là người bất lực, và cái thú duy nhất của Bốn Thôi là vặt lông mũi:

“Bốn Thôi tìm được cách tiêu khiển và mơ mộng trong việc vặt lông mũi. Đó là một cử chỉ nhỏ nhặt không ai để ý đến, nhưng rất quan hệ trong cuộc sống riêng của anh. Vì không phải là chuyện làm tốt, chuyện điểm trang gì, cho nên Bốn Thôi không bao giờ dùng đến cái gương. Hễ cứ lúc nào rảnh việc là anh đưa tay lên mũi, rờ rẫm, thăm dò, rình rập từng sợi lông mọc thò ra ngoài; vẻ mặt anh chăm chỉ đăm chiêu. Sự vặt nhổ như thế không phải không có lúc đau đớn, vì vậy có những khi anh nhăn nhíu mặt mày; những khi cho các ngón tay tìm kiếm, vẻ mặt anh khổ sở khó nhọc. Và đối với người ngoài thì cử chỉ đó còn có vẻ kỳ cục, tục tằn, khó coi, càng tăng thêm vẻ dớ dẩn của anh” (Tùy bút 2, trang 72-73).

Bốn Thôi là nhân vật tiểu thuyết kỳ lạ thứ ba sau A Q của Lỗ Tấn và Chí Phèo của Nam Cao. Nhưng trái hẳn với hai nhân vật kia, nếu Lỗ Tấn và Nam Cao đều chiếu vào những khiá cạnh bất bình thường của nhân vật, thì ngược lại Võ Phiến chiếu vào những khía cạnh bình thường nhất để tạo sự bất thường. Bởi không có người đàn ông nào là không một lần làm cử chỉ vặt lông mũi. Nhưng khi Võ Phiến chiếu kính hiển vi vào việc này, mô tả nó trên một trang sách, làm lộ tất cả bản ngã của nó ra, thì nó trở thành bất bình thường, thô lỗ, và kỳ cục. Nhổ lông mũi hoặc ngoáy tai, ngoáy mũi, khạc nhổ, là những cử chỉ mà bất cứ người nào cũng làm, nhưng là những cử chỉ không đẹp mắt, người ta chỉ làm khi một mình, bởi giáo dục xã hội dạy như vậy. Khi đứa nhỏ biết thò tay ngoáy mũi, thì cha mẹ nó bảo không được làm như thế, phải dùng mùi xoa hỉ mũi. Nhưng Bốn Thôi cứ khơi khơi làm cái việc khó coi này một cách công khai, chăm chỉ, hết sức tỉ mỉ, trước công chúng, là vì anh chưa được hưởng nền giáo dục nào cả. Nói khác đi Bốn Thôi là con người thuần túy trần truồng, con người người chưa bị xã hội hoá.

Nhưng điểm đặc biệt là nếu ta nhìn vào xã hội ta hiện nay, thì không chỉ có một Bốn Thôi mà chúng ta cũng lại thấy hằng hà sa số Bốn Thôi khác, ví dụ một vị chính khách đi công du nước ngoài, trong một buổi họp chính trị hay văn hoá cấp cao, thản nhiên ngồi ngoáy mũi trước bàn đàm thoại. Ấy là một vị Bốn Thôi thuần tuý.

Tất nhiên, để bào chữa, chúng ta có thể cãi đây là một phần của dân tộc tính, một cử chỉ tự nhiên, phơi bày bản chất con người trần trụi. Và thiên tài của Võ Phiến là ở chỗ đó: Chỉ cần mấy nét, Bốn Thôi đã phản ánh cái phần dân tộc tính xa xưa nhất, phần chưa được xã hội hoá ấy của dân tộc. Cử chỉ của Bốn Thôi, nếu nhìn từ phía con người xã hội hoá, là một cử chỉ bệ rạc. Nhưng nếu nhìn từ góc độ dân tộc tính, thì đó là cái gì đáng yêu, phải bảo tồn, không thể đụng chạm được, không thể thay đổi được. Mặc cho Việt kiều băn khoăn, ngượng ngập khi phải thông dịch cho một vị chính khách có những cử chỉ “chân chất” rất Bốn Thôi trong bàn họp quốc tế.

Khi Võ Phiến tạo ra nhân vật Bốn Thôi, cách đây nửa thế kỷ, chắc ông chưa tiên đoán được tình trạng Bốn Thôi “mở rộng” như bây giờ, mà ông cũng không muốn mỉa mai ai, ông chỉ chiếu kính hiển vi vào một cử chỉ tầm thường của một nhân vật quê mùa, một cá nhân chưa được xã hội hoá. Bốn Thôi biểu hiện thái độ người làng xã, chưa bước ra khỏi thôn mình, chỉ sống khoanh vùng trong không gian kín, chưa quen giao tiếp với người bên ngoài. Võ Phiến không có thái độ khôi hài, chế giễu mà ông muốn đưa ra cái bi đát nằm sau. Cử chỉ của Bốn Thôi, được ông phân tích như một hành động tự xoá mình trước công chúng, nghĩa là Bốn Thôi “vẫn ngồi trước mặt mọi người mà như không hề hiện diện trước một ai, vẫn có đó mà như không có, như là đang sống ở một thế giới nào xa cách tận đâu đâu, anh lặn chìm rất sâu khuất vào trong sự cô đơn của mình, dứt hết mọi liên hệ xung quanh mình và không buồn áy náy lo lắng gì về thái độ của mọi người” (trang 73).

Đối với Bốn Thôi, vặt lông mũi chỉ là một cách chữa bệnh bối rối và cô đơn. Để trốn cô đơn, Bốn Thôi thu mình trong một cử chỉ khó coi và bất cần thiên hạ. Nếu áp dụng tâm lý này vào vị chính khách chăm chỉ ngoáy mũi giữa một bàn tiệc, ở nước ngoài, thì cũng thấy ngay đó một cử chỉ cô đơn và bối rối. Ông cũng hệt như Bốn Thôi, là một người bình thường, làm những cử chỉ bình thường, với những cái đau bình thường.

Một ví dụ nữa: gan bàn chân Bốn Thôi bị nứt nẻ, nhất là về mùa rét, phải làm việc ngoài đồng, đất bùn nhét vào các vết nẻ làm anh đau đớn, nhưng thay vì chữa chạy, anh cứ ỳ ra. Khi người vợ thứ nhì là chị Lộc, nhìn thấy những vết nẻ, chị bèn lấy dầu rái dùng cái que, nhét vào các vết nứt ở gan bàn chân và anh đỡ đau. Chị Lộc là khía cạnh thứ nhì của dân tộc tính: cái gì cũng dầu rái, dầu rái chữa bách bệnh. Ở quê Bình Định, nguời ta dùng dầu rái, ở những nơi khác, người ta thay dầu rái bằng dầu cù là. Và đó là đặc tính thứ hai của người Việt.

Bốn Thôi bị bất lực mà anh không biết. Anh cưới cả thảy 6 người vợ, chỉ có chị Lộc là trung thành với anh suốt cuộc đời ngắn ngủi của chị. Còn bốn người đàn bà kia, mỗi người chỉ ở được ba bẩy hăm mốt ngày là bỏ đi. Người vợ cuối cùng lanh hơn, cho anh một bầy con và như thế là anh Bốn Thôi nuôi cả một gia đình con cái đầm ấm hạnh phúc.

Đọc Lại thư nhà, đọc đi đọc lại, lần nào chúng ta cảm thấy như có cái gì vừa xúc động, vừa rờn rợn, như Võ Phiến đã đi vào từng lỗ chân lông của nguời Việt, đi sâu vào dân tộc tính Việt, bởi phần đông người Việt đều thấy mình anh hùng, mà không biết mình bất lực. Bị lừa bịp mà không biết mình bị lừa bịp. Còn ở trong tình trạng làng xã, kể cả những người đi ra ngoại quốc đã lâu, mà vẫn không thấy mình chưa thoát khỏi tình trạng làng xã. Khư khư giữ thế đứng của Bốn Thôi, khép mình trong sự tự mãn, và do dó, bị tha hoá ngầm mà không biết.

Võ Phiến với bốn nhân vật tiểu thuyết đã trình bày sự tha hoá của bốn người đàn ông, bốn nền móng xã hội: nông dân, trung lưu, nho học và tây học, trong một giai đoạn giao thời, nhưng qua họ, ông đã vẽ nên sự trì trệ, sự tha hoá chung của dân tộc.

Thụy Khuê






Tìm hiểu thế giới nhân vật của Võ Phiến


Viết bởi Nguyễn Mộng Giác


Nguồn: Văn Học số 19

Nhân dịp tái bản tập TRUYỆN NGẮN I của Võ Phiến


"Ngót hai mươi năm trời rồi, gần như hồi nào anh cũng phải cầm vũ khí trong tay: anh né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ... và anh cũng lại đánh trả nữa. Và nét mặt anh thì lúc nào tuồng như cũng rầu rầu, nguội lạnh như một người ngoại cuộc.

Vậy mà những hoạt động của anh đã làm ra tình hình của xứ sở. Ở Hoa Thịnh Đốn, ở Mạc Tư Khoa, ở Bắc Kinh, Tân Đề Ly, Vọng Các, Ba Lê... ở khắp các nơi trên thế giới người ta theo dõi anh, bàn tán về anh. Người ta đem anh ra so sánh với người dân Ðức ở Bá Linh, người dân Lào ở Vạn Tượng... người ta dòm ngó, dò xét cử chỉ của anh, cân nhắc, đánh giá sự can đảm của anh, tài nghệ của anh. Xung quanh hành động anh chắc chắn có những cuộc mặc cả, những trù hoạch bố trí, những mưu mô âm thầm giữa nước này nước nọ. Và cũng có cả những lời hô hào, cổ võ, những tuyên bố lớn tiếng về nhiều vấn đề quan trọng, lý tưởng cao đẹp."
(Thư Nhà)

Đấy, cuộc đời của Bốn Thôi. nhân vật tiêu biểu nhất của Võ Phiến. Người nông dân cục mịch có nét mặt buồn hiu lạnh lẽo. thiếu hẳn sự vồ vập mãnh liệt. nhưng trong lòng, chất chứa không biết bao nhiêu khát vọng tội nghiệp. Người nông dân ấy không có cái bề ngoài coi được. Anh xấu trai, nghèo nàn, chậm chạp, vụng về. Thú vui độc nhất cho cả một kiếp đời dài là trưa trưa, tìm một chỗ dừng chân thật tịch mịch, nghếch mũi lên không mơ màng mằn mò nhổ từng sợi lông mũi. Bao nhièu người đàn bà ghé tạm, cùng anh đi chung một đoạn đường. Họ đã bỏ đi vội. Anh không oán, không trách. Anh đều đặn, cần mẫn thăm nom lo lắng cho gia đình nhà vợ cũ, trong khi vẫn âm thầm quờ quạng tìm lấy một chút tình thân mới. Anh đi tìm hoài, lòng xao động khắc khoải, hồn lo âu hối hả mà nét mặt vẫn "rầu rầu, nguội lạnh như người ngoại cuộc". Thế mới kỳ! Trừ chị Lộc chịu khó ở lại với anh, chịu khó lấy dầu rái âu yếm quét vào các vết nứt tê thấp trên bàn chân anh (vết nứt chai lại lành hẳn nhưng cái chết của chị để lại một vết nứt còn sâu còn thảm trên cuộc đời anh hơn nhiều) còn những người vợ khác tò mò mà đến, rồi lặng lẽ bí mật bỏ đi. Nếu không có chị đàn bà góa ham ăn thịt ếch lỡ mồm lỡ miệng, không ai biết anh mang chứng bất lực về sinh lý. Bấy giờ người ta mới hiểu anh, thương hại cho anh, mới hiểu thái độ nôn nả chạy đôn chạy đáo đi tìm những hình bóng đàn bà quanh quất, với nét mặt ơ hờ. Tâm lý học gọi anh là một kẻ ẩn ức. Anh bất thường. Cuộc đời đáng lẽ chảy xuôi theo một dòng, từ ngọn suối cao đổ xuống sông dài xuôi êm ra bể, đột nhiên bị chặn lại. Nước uất - Mặt nước lặng nhưng dưới đáy sâu cuồn cuộn biết bao sóng xoáy, vung phá, xói lở. Chính nguồn sóng nội tại ấy hướng dẫn cuộc đời Bốn Thôi, giúp anh kiên nhẫn liên tục chạy theo cái bóng hạnh phúc phất phơ đâu đó, khéo léo né viên đạn bên này, tránh ngọn roi bên kia. Sóng ngầm sai khiến anh, xúi giục anh. Vẫn với nét mặt rầu rầu, anh vâng theo. Người đọc theo dõi cuộc đời Bốn Thôi lấy làm ngạc nhiên. Nhưng quanh anh còn có cả một thế giới. Một tiểu thế giới "đặc biệt" chẳng khác nào tiểu thế giới của Don Camillo.

Bốn Thôi có nhiều bạn, người nào cũng có nét mặt "rầu rầu, nguội lạnh như một người ngoại cuộc" nhưng bên trong, sâu tận hố thẳm của tiềm thức mù mịt, luôn luôn có nguồn sóng bạo tàn thúc giục, réo gọi.

Đó là tiếng sóng dậy ở nơi xa, rất xa, ám ảnh nhân vật chính trong truyện Lỡ làng:

"Hồi còn nhỏ, nằm ngủ với mẹ, nhiều đêm thức giấc giữa khuya, y nghe tiếng vịt cựa trong chuồng, kêu lít chít nho nhỏ. Và nghe tiếng ì ầm, y ngạc nhiên hết sức. Làm sao nghe được tiếng sóng? Nhà y ở chân núi, cách bể ít ra cũng mười lăm cây số, làm sao y nghe được tiếng sóng vỗ giữa đêm khuya yên tịch không có tý gió? Không biết. Y rụt rè e ngại sẽ lay mẹ dậy hỏi: Cái gì đó mẹ? Mẹ y bảo: Ðộng trời rồi. Sóng dậy đó con ạ."

Ðó là tiếng thét "Ải ải, quan hầu nhập yết nhập yết" của người ông trong Về một xóm quê, tự dưng mà nổi lên, bùng vỡ cơn giận cùng nỗi sợ hãi không gian trống trải vắng vẻ cứ bám riết lấy đời sống ông già, không chịu cho ông bay bổng như ý. Và cũng giống như Bốn Thôi, người ông thét lên "ải ải" với một gương mặt rầu rầu bình thản:

"Giọng thét dồn dập đầy nộ khí vang lên trong một ngôi nhà vắng lặng, bỗng dưng phát lên rồi bỗng dưng dứt hẳn, làm cho chung quanh tưng hửng sững sờ. Chúng tôi lại càng thấy cảnh nhà vắng vẻ và trống trải thêm. Có khi một lát sau nghe tiếng guốc lẹp kẹp của ông tôi bước xuống. Tôi rụt rè ngửng đầu lên thì thấy nét mặt ông tôi lại bình thản, đôi khi có một vẻ lạnh tanh ngao ngán, chẳng còn đâu là dấu vết của cái nộ khí bừng lên trong giọng hát vừa rồi."
(Về một xóm quê).

Âm thanh cuồng nộ huyền bí ấy đã từng khiến Bốn Thôi không ngớt khổ công trì chí chạy theo đám vợ con để tìm hơi ấm gia đình, rồi cũng chính âm thanh ấy đẩy Trần Kỳ Vỹ chạy theo cái rạo rực xác thịt tưởng tượng (Người Tù), xúi ông Bốn Tản bỏ nhà ân nhân chạy theo lũ cháu bơ vơ (Lẽ Sống). Giữa khung cảnh lạnh lẽo xơ xác, nghèo khó trơ trọi, những người bạn cũ! Bốn Thôi mang bộ mặt lạnh lùng rầu rầu. Ngưởi ta tưởng họ hiền lành, chất phác. Hoặc như một từ ngữ địa phương nơi quê hương Bốn Thôi, người ta tưởng họ "thàng". Không - Đừng lầm. Họ đều dữ. Họ đều bạo. Nguy hiểm hơn nữa, họ dữ, bạo một cách bất ngờ, vào những lúc không đề phòng, với nét mặt thản nhiên. Họ bạo tàn theo một lối không giống ai. Như Bốn Thôi đã làm.

"Cứ mỗi lần nào có da khô ở gan bàn chân, anh lại lựa những lúc ngồi gần vợ để tước xé mảnh da ra. Anh gây đau đớn cho mình, kinh hãi cho người vợ. Và anh thưởng thức một thứ sung sướng tinh quái. Những tiếng kêu bối rối "Á! Ghê quá. Ái. Dễ sợ chưa" phá vỡ sự cô đơn. Và kiếp nhân sinh lại có một thứ ý vị kỳ quặc nữa."
(Thu Nhà).

Người mẹ vợ ông Ba Thê phá vỡ cô đơn và mối thù hận bằng cách truyền thụ tất cả phong thái cư xử con nhà dòng dõi cho đứa con gái nhỏ là vợ ông Ba Thê (Giã Từ). Toàn dồn tất cả phẫn nộ bất mãn lên trên mấy tấm danh thiếp bắt đầu bằng hai chữ "cher ami" của cha.
(Giã Từ).

Dù là cậu bé hay ông già luống tuổi, dù là người đàn bà tàn tật hay cô gái mười sáu dậy thì, họ có một lối tàn bạo riêng. Tàn bạo lặng lẽ. Như một hình thức khổ dâm. Người ta bảo Bốn Thôi bị bất lực sinh lý. Bảo Trần Kỳ Vỹ, Bốn Tản, Ba Thê, Bái Công, Ba Càng Cua, Sáu Ty v.v... là những nhân vật kỳ quặt, bất thường. Đời họ không xuôi dòng. Cuộc sống của họ như sóng ngầm. Lặng lẽ, bất trắc, quá khích, hiu hắt đến ngao ngán.

Chẳng những đời sống nội tâm của họ mất quân bình, mà cả đến gương mặt của họ, cử chỉ hành động của họ cũng mất cả cân đối. Không có nhân vật nào của Võ Phiến có một gương mặt bình thường, “coi được". Hoặc đôi mắt lộ quá. Hoặc cái đầu hói quá. Hoặc gò má cao quá. Hoặc bộ răng hô quá. Thân hình ốm yếu quá. Nước da tái quá. Nếu họ đủ ăn mập mạp, thì cách ăn mặc lại dơ dáy cẩu thả quá. Nếu ăn mặc đàng hoàng thì lối nói, lối cười, lối chắp, lối nuốt thô tục quá. Nếu không thô tục thì lại tủn mủn chi li quá, mất cả vẻ hào hoa phóng khoáng. Cả đến cô Hạnh hiền thục, nàng tiên chờn vờn mê hoặc trong truyện Tâm Hồn, tuy khuôn mặt bầu bĩnh, mắt sáng đa tình, mỗi khi làm duyên thường cắn môi dưới, e lệ cúi đầu, vẫn cứ có "màu da tai tái và cái trán hơi dồ".

Trời hỡi! Vì sao đám bạn bè của Bốn Thôi phải bị đày đọa truân chuyên như vậy? Qua mười lăm năm lưu lạc, Vương Thúy Kiều vẫn còn quá đẹp và dù đời sống có trôi nổi bập bềnh, vẫn có một góc nhỏ trong tâm hồn mà nàng còn nguyên vẹn là nàng, góc nhỏ của niềm hy vọng. Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng. Của tin còn một chút này làm ghi. Trong góc nhỏ quý giá ấy.. Thúy Kiều ăn nói mạnh dạn, đi đứng đàng hoàng, ăn nói tự tin. Bạn bè của Bốn Thôi không được như vậy. Họ hẩm hiu hơn nhiều, quá nhiều.

Họ ít nói. Hoặc cuộc sống của họ phẳng lặng, vô vị quá, không có gì vĩ đại, quan trọng để nói ra. Cả trong tình yêu, "chàng và "nàng" chỉ nói cộc lốc, nói gióng một.

"- Nóng nực quá.

Một lát sau, tôi hỏi tiếp:

- Tới lâu chưa ?

Cô ta vẫn cúi đầu, gác cằm lên đầu gối :

- Vừa tới.

- Ði một mình ?

Cô ta mỉm cười không trả lời. Tôi lại hỏi :

- Trọ ở gần đây, phải không ?

- Tại sao biết ?

- Không lẽ đi xa mà không có nón ?

- Giỏi !"

(Ðêm Trăng - Phù Thế)

Hoặc họ bị tước đoạt quyền lên tiếng. Họ bị nghẹn, âm thanh dồn nơi cuống lưỡi. Do đó mà đám bạn bè của Bốn Thôi chỉ ậm ừ khó hiểu. Họ nhìn nhau, trong lặng lẽ, người nọ thấy người kia chẳng khác nào những hình bóng múa may, cử động kỳ dị vô nghĩa như trên một cuốn-phim-nói bị hỏng âm thanh. Chính bằng cái nhìn lo ngại, đầy sự sợ hãi ấy mà Toàn đã quan sát các “cher ami" của cha trong Giã Từ. Toàn thấy người “bạn hữu thân ái "nào của ông Ba Thê cũng có điệu bộ lố lăng, ti tiện. Ði lóm thóm, cười nham nhở. Huơ tay múa chân vô nghĩa. Giống y các hình nộm cử động do tài điều khiển của một tay làm trò xiếc hạng tồi.

Thành thử nhân vật Võ Phiến lặng lẽ âm thầm, đi đứng ngại ngùng. Không được nói, họ chỉ còn biết "nhìn". Không đủ lòng tự tin tối thiểu của Thúy Kiều, đám bạn của Bốn Thôi đành phải "nhìn lấm lét". Không có chút gì thái quá nếu chúng ta bảo nhân vật của Võ Phiến, những người bè bạn của Bốn Thôi đã dồn tất cả sinh lực vào thị giác. Họ lặng lẽ, vụng về. Họ rụt rè, do dự. Nhưng mắt họ luôn mở lớn. Gan lì thì họ nhìn lom lom như kẻ trước mình là thức ăn hợp khẩu hay một hiện tượng lạ mắt. Rụt rè thì họ nhìn lấm lét trong nỗi lo sợ bị bắt gặp. Nếu muốn tìm một điểm “nhất dĩ quán chi "cho toàn thể văn nghiệp Võ Phiến, thì điểm nhất quán ấy là cái nhìn xoi mói của nhân vật.

Võ Phiến đã từng đổi thay khung cảnh và điều kiện sinh hoạt của nhân vật. Trước tập Giã Từ, chúng ta gặp những người nông dân nghèo khổ bệnh hoạn ở một miền trơ trọi xơ xác của Trung Việt, miền đất bị bỏ quên của Thượng đế, gần bên sườn núi cằn cỗi và cách xa bờ biển động. Sau tập Giã Từ, nhân vật của Võ Phiến là những chàng công chức cạo giấy các nha sở thủ đô, bi chìm trong cuộc sống huyên náo vô tình.

Thái độ, quan niệm trước cuộc đời của ông cũng đổi thay. Trước, ông dùng giọng châm biếm mai mỉa. Sau, ông băn khoăn trầm tư. Sự thay đổi quan niệm nhân sinh đưa đến đổi thay của bút pháp: từ truyện kể, Võ Phiến chuyển sang đoản văn (Ảo Ảnh, Phù thế). Duy chỉ có cái nhìn của nhân vật là bất biến.

Từ ban đầu, ông đã thất vọng về cái tầm thường của hình hài con người. Chỉ trừ có đôi mắt:

"Thực tình vừa nghĩ tới cặp mắt hôm nọ, tôi thấy còn một cảm tình đặc biệt với cặp sinh vật bé bỏng, rụt rè và tha thiết ấy - nhưng hôm nay tiếp xúc với con người tầm thường của hắn thì hết cả."
(Dung - Bách Khoa số 11).

Ðôi mắt tách ra khỏi thân thể của nhân vật, trở thành một "cặp sinh vật bé bỏng, rụt rè và tha thiết "- Cái nhìn trở thành độc lập, sống đời sống riêng. Vì thế bạn bè của Bốn Thôi đối đãi với nhau, giao tiếp với nhau không bằng lời nói, mà bằng những cái nhìn, khi len lén, khi dớn dác, thiếu hẳn lòng tự tin. - Ngay trong tình vợ chồng, nhân vật vẫn nhìn nhau với tất cả e ngại, rụt rè:

"- Sắp xong rồi.

Nhà tôi mỉm cười không nói. Như thế tự nhiên lại xác nhận cảm tưởng của tôi là hiển nhiên. Tôi lắng nghe lại cái dư vang của ba tiếng tôi vừa thốt ra, và lấy làm ngạc nhiên. Thoạt tiên, nó có cái giọng reo vui, thế mà sau khi tôi để ý đến sự yên lặng xác nhận của nhà tôi thì ba tiếng "sắp xong rồi" lại như có giọng phân vân nghi vấn. Có gì đâu. Công việc giật vải bạch bạch sắp xong rồi, tôi sắp được đi dạo dưới trăng, chuyện giản dị rõ ràng như thế, có gì mà tôi phải nêu lên chờ một sự xác nhận mới vững lòng.

Tôi mỉm cười về sự e ngại ngộ nghĩnh của mình. Lần này, đến lược nhà tôi lén nhìn tôi ngờ vực. "
(Lẽ Sống).

Ðôi mắt người chồng đưa về phía vợ vờ vịt thản nhiên nhưng thật ra là rình rập nghi nan, và đôi mắt của người vợ nhìn chồng cũng hồ nghi lén lút. Liên hệ giữa người với người thành ra khó khăn. Ngay cả cách tự mình nhìn mình, chàng công chức tên Thảo tự nhìn chân dung của mình qua cuộc phiêu lưu tình ái vặt, một chiều mưa đạp xe đạp từ Huế về Dương Nỗ, cũng có nhiều điểm khác thường, khó khăn quá! Mặt mày nhăn nhíu đến khổ sở. Và quả nhiên, cuộc sống méo mó, biến dạng:

"Mà không những chỉ nhìn thấy târn trạng mình. Thảo như còn đang trông thấy bao quát được cả cuộc đời mình, từ những chi tiết vô nghĩa như những món thuốc ngừa cảm mà anh sẽ đòi uống đêm nay, sự săn sóc chộn rộn của Liên xung quanh anh đêm nay, cho đến cảnh sống bao nhiêu năm đã trôi qua, và bao nhiêu năm sắp đến. Anh trông thấy tất cả như thế, vẫn thản nhiên và hơi khinh bỉ như là chứng kiến cuộc đời của ai đâu xa lạ, và trong trí anh cũng nghĩ rằng đáng lẽ đó không phải là cuộc đời anh."
(Tâm Hồn).

Kẻ nhìn đi ngơ ngác hoảng hốt. Kẻ nhìn lại nghi ngờ theo dõi. Bạn bè quê mùa của Bốn Thôi không ngớt làm cho cuộc đời mình trở thành bất trắc gian lao bằng cái nhìn của nhau. Rồi bẵng đi gần mười năm, những biến đổi của thời thế chồng chất. Thế sự điên đảo. Lớp này tản cư về thành. Lớp kia kẻ chết kẻ lên núi. Thế lực này vừa ngã xuống, thì cũng vươn lên một thế lực khác. Một buổi chiều đẹp trời nhìn mây ngũ sắc biến đổi trên nền trời phía sau làng xóm quê cha, nhân vật chính của truyện Về một xóm quê liên tưởng đến kiếp phù vân. Mười năm sau. những người bạn thị thành của Bốn Thôi ăn mặc khác, ở nhà cửa khác, bận tâm với những vấn đề khác. Nhưng họ cứ ngay ngáy bất an trước cái nhìn của nhau:

- Có gi đâu! Chỉ nhìn thôi, kẻ khác đã khiến ta bất an. Xã hội mỗi ngày mỗi đông đảo, sự gặp gỡ tiếp xúc đụng chạm với đồng loại mỗi ngày mỗi nhiều, mỗi chặt chẽ. Ai nấy luôn luôn bất an."
(Lúc dùng chân. Phù Thế)

Cô gái xa lạ suýt bị hai người lính cỡi xe gắn máy tông ở một ngã tư. Cô ta rùng mình. nhưng chỉ dám liếc mắt nhìn xiêng xuống chiếc bánh xe hung hăng để trách móc. Vì sao vậy? Cô sợ cái nhìn của kẻ khác. Một nữ sinh định leo lên một chiếc xe lam đã chật, thất vọng trụt xuống đứng bên đường, đưa tay che miệng khẽ ho. Cô bé đâu có ho thật. Giả vờ đấy! Cô bé cố làm một cái gì, bất cứ cái gì, để che giấu cảm giác khó chịu, vì cô bé biết khách trên xe lam đang chú ý nhìn mình. Như vậy thì tia nhìn của chốn thị thành này đan thành chiếc lưới lớn, chụp lên cuộc đời ta, bó chặt thân thể ta. Cô gái ở ngã tư đèn xanh đèn đỏ, cô bé hụt chuyến xe lam, hai người bạn nhỏ thị thành của Bốn Thôi, họ cũng cùng chung một nỗi khổ tâm với người bạn lớn quê mùa chất phát. Cuối cùng, vào một đêm trăng, nhân vật của Võ Phiến khám phá được lối thoát: hãy xa hẳn mọi liên hệ ràng buộc của người, và trở về với cái cô độc lạnh lẽo mà an toàn của vô tri:

"Ủa? Khu phố của chàng đây sao? Nó đấy ư? Quanh năm chàng quen thấy nó hừng hực, nhễ nhại, nó say mê thiết tha, nó chán chường phờ phạc. Đêm nay, nó vụt lột cởi hết mọi tình người: Gỗ đá còn trơ gỗ đá thôi, xi măng, hắc ín, ngói, vôi... hiện nguyên hình. Và chàng cảm thấy an lành thoải mái bên cạnh vật vô tri. "
(Lúc dừng chân - Phù Thế)

Cuộc đời các nhân vật Võ Phiến sao mà lạnh lẽo, tội nghiệp. Họ không được quyền đẹp đẽ. Không được quyền ăn nói vung vít. Nhất là không được quyền tự tín. Tìm những từ ngữ cho họ, ta chỉ thấy: mon men, ngại ngùng, lấm lét, dớn dác, rầu rĩ, thấp thỏm. Và lạc loài, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Bốn Thôi và tất cả bạn bè của anh luôn luôn "rầu rầu nguội lạnh như một người ngoại cuộc lạnh lẽo dửng dưng, rụt rè lỏm thỏm như những người khách trọ. Họ trải qua hơn mười lăm năm lưu lạc, và cũng đã nếm bao nhiêu nỗi nhục nhằn đoạn trường chẳng thua gì Vương Thúy Kiều. Họ không tìm được vườn Thúy rồi từ đó về sau chỉ biết:

Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai.


Hãy trở lại con đường lưu lạc của họ từ đầu. Tiếng sấm động ì ầm ở một nơi xa thật xa trong kỷ niệm nhân vật chính của truyện Lỡ làng báo hiệu các biến động dồn dập của tiếng sấm huyền bí ấy. Lớn lên, cặu bị ném vào cơn lốc của cách mạng. Bạn bè của Bốn Thôi cũng vậy, ngỡ ngàng chưa quen với vận hội mới. Cách mạng có nhiều điều mới lạ quá.

“Cô Bốn tôi chạy về mách với bà tôi nửa kiêu hãnh nửa ngượng ngùng rằng cô đã hóa thành bà quân sự rồi. Chao ôi! Thực là mầu nhiệm. Nếu không có cách mạng đố ai biết được dượng Bốn tôi có tài thao lược để đảm nhiệm chức ủy viên ngoại giao. Cứ thế mỗi làng đều có đủ ủy viên văn hóa, ủy viên xã hội...".
(Về một xóm quê)

Suốt chín năm dồn dập biến cố, tình tiết rói rắm, thế sự thăng trầm đến nỗi ai nấy đều bi quay cuồng điên đảo. Họ không hiểu mình đang làm gì, gào thét đập phá trong lúc bên tai không ngớt oang oang các từ ngữ lớn. Nhưng vào những lúc tĩnh lặng, một mình nhìn lại chính mình, họ giật mình. Giữa bộ máy lý trí đồ sộ, họ thấy cái phức tạp huyền nhiệm của tình cảm. Giữa những mơ ước phi thường, họ mon men tìm lại nét đẹp bình dị. Những xúc động vụn vặt, những mơ mộng yếu mềm ấy đủ làm cho người chiến sĩ Cộng Sản tên Lung lạc loài.

"Y nhớ mùi thơm cay cay nồng nồng trên ngực áo Cúc. Cúc mà y đã ôm trong tay, đã xô y ra, nhưng nhất định sẽ là của y nếu y không bị bắt sau lần gặp gỡ thứ ba. Y băn khoăn tự hỏi: y đã đến chở Cúc với cái tâm trạng của kẻ đến chờ phương tiện để thỏa mãn một nhu cầu, còn Cúc đến với y với ý nghĩ gì? Thân thể của Cúc có lúc mềm yếu đi vì rung động hay vì phục tùng nhiệm vụ? Dù sao thì ở Cúc cũng có cái gì phức tạp hơn những ý nghĩ hăm hở và đơn giản của Lung lúc ấy, ý nghĩ cộc lốc như một nhu cầu... Trên mười đầu ngón tay của Lung như còn cái cảm giác trơn trơn êm dịu của lúc áp trên lần áo lụa. Y nghĩ đến sự đau khổ của Ngọc, đến sự lầm lộn tình cờ, đến con kiến len lỏi trên cánh tay Cúc, giữa những sợi lông vàng óng ánh... Sao đến lúc này y mới thấy tha thiết đến cuộc sống tầm thường, đến những tình cờ, những chi tiết nhỏ nhặt của cuộc đời đến thế "
(Mưa đêm cuối năm)

Nhân vật của Võ Phiến, trong suốt thời kháng chiến, chứng nghiệm được ý nghĩa của những cái vụn vặt, tầm thường, tình cờ, bình dị. Chứng nghiệm được ý nghĩa của cuộc sống, và quyền được sống với những cái vụn vặt, tình cờ, bình thường. Họ thức giấc, nên trở thành kẻ nguy hiểm cho chế độ. Nhiều người bị sỉ nhục, bi bêu giễu, bị tù tội. Nhiều người bị khai trừ - Họ thành kẻ lạ, kẻ ở trọ.

Kịp đến khi hiệp định Genève được ký kết, họ thở phào mừng rỡ, vội vã lén lút trốn vào vùng quốc gia kiểm soát. Họ tự nhận là "những người thiện chí", từ anh chàng Thông mặc bộ đồ bà ba mầu xám tro, ông già Đỗ Mạnh Kỳ mặc quần đen vải tám và cái áo xa tanh đen rất cũ đã thủng ở cùi chỏ, cho đến ông già Hoàng Gia Lộc vận quần sọt ka ki vàng và sơ mi vải ta nhuộm đà, Phùng Văn Nước mặc pyjama cũ do người bạn làm bồi tặng lại (xem truyện Lỡ Làng). Họ tưởng đi gặp được “anh em". tìm được hoàn cảnh lý tưởng để "làm việc với nhau." Ăn nhờ, ở đậu, họ vẫn hăng hái bàn soạn kế hoạch, kiểm soát sơ đồ tổ chức, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc. Nhưng một lần nữa, những "người thiện chí" mau chóng thấy mình là kẻ "lỡ làng" . Một người trong đám bạn bè của Bốn Thôi đã tự thú:

"Còn tôi, tôi không thể kể lại những rối ren trong tám chín năm của tôi cho ông tư nghe được. Thái độ hưởng lạc vô tư thản nhiên của ông ta, thái độ hờ hững đó như một cách lăng mạ nặng nề tàn nhẫn. Lúc đó tôi mới thấy rằng trong cái xã hội xao động dữ dội này vẫn còn có những chỗ lặng yên một cách ghê sợ phũ phàng, tôi thấy rằng mình đã bị đày đi xa cảnh thái bình an lạc và lạc mất đường về "
(Thác đổ sau nhà)

Và một lần nữa, đám nhân vật tội nghiệp của Võ Phiến trở thành người khách trọ - Họ tiếp tục mon men, lấm lét, dáo dác, rầu rĩ. Tiếp tục thấp thỏm. Tiếp tục lạc loài. Cái nhìn kẻ khác tiếp tục tra khảo họ, úp chụp lên đời họ. Thất vọng làm mờ đôi mắt họ. Họ chỉ biết nhìn hau háu để tìm đề tài chế diễu, hài hước. Họ nhắm mắt để trầm tư, hoặc chỉ dám lặng lẽ đối diện với cung trăng. "thao thức tay đôi trong vắng vẻ, đối diện im lìm không nồng nàn "(Phù Thế) cứ thế tiếp tục, tiếp tục, một ngày qua, một ngày khác... đến lúc: “Nước mưa thấm vào đất, âm thầm len lỏi qua nhiều lớp đất, như một cái phin vĩ đại, cuối cùng đến mặt áo quan. Nó dừng lại một chút, lưỡng lự, ngập ngừng, thăm dò. Nhưng áo quan đã mục: nó được phép. Bèn có những giọt nhỏ xuống: một giọt bên phải, một giọt bên trái, một giọt. Thôi. Đúng rồi! Ðúng vừa nơi trước kia vốn là trái tim của chàng. Chàng tê buốt cả người, rồi tinh thần tỉnh táo như vừa mới tiếp nhận sinh khí. Đã lâu. mòn mỏi đợi chờ, mới lại được tiếp xúc với một chút lọt từ trên kia xuống, một chút trần gian."
(Giọt cà phê. Ảo ảnh)

Nhưng đã quá muộn rồi! Chút trần gian mòn mỏi chờ đợi ấy, không thể ở kiếp này cho Bốn Thôi và đám bạn bè của anh, "Tiểu thế giới" của Bốn Thôi, sao mà buồn quá đỗi!

Nguyễn Mộng Giác
Viết Lời Bàn

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Ăn và đọc - Tùy bút của nhà văn Võ Phiến


Tùy bút của nhà văn Võ Phiến


Thỉnh thoảng chúng ta gặp ở tiệm một vài người Mỹ ngồi ăn phở. Có người cầm đũa khá thạo. Trong số một đôi triệu người Mỹ luân phiên đến xứ này rồi ra đi, những kẻ tò mò tiến xa vào nếp sống Việt Nam tới mức ấy chắc không lấy gì làm nhiều. Các kẻ ấy trở về nước, giữa dăm ba câu chuyện ly kỳ về đất Việt xa xôi kể với bạn bè, có thể múa biểu diễn cặp đũa, có thể nói đến cái mùi lạ lùng của rau quế vừa ăn vừa ngắt từng lá bỏ vào tô phở, đến cái vị ngộ nghĩnh của những tép củ hành nhúng trong nước dùng vớt ra với chỏm lá xanh xanh v.v…


Phở

phở bò, ăn sáng

Như thế là vượt xa quá những khuôn sáo, những chỗ gặp gỡ thông thường của các du khách rồi. Du khách Tây phương nói về món ăn Việt, bất quá gặp nhau ở món nước mắm, rồi thôi.

Vậy những người Mỹ hiếm hoi nọ đáng khen, về sự hiểu biết rộng rãi.
Tuy nhiên từ chỗ biết ăn phở cho đến cái trình độ am hiểu các đặc điểm, các sở trường sở đoản của từng thứ phở bò, phở gà, phở nước, phở áp chảo, phở tái, phở chín, phở nạm, phở gầu, phở sụn v.v…, còn nhiều cách biệt. Rồi từ chỗ thạo phở cho đến cái tâm tình về phở như của Nguyễn Tuân, lại còn một tầng cách biệt nữa. “Nắm vững” một món ăn — chỉ một món thôi — đâu phải dễ.

Thật vậy, không cứ là khách ngoại quốc, ngay đến người Việt Nam không phải ai cũng bưng tô phở mà ăn như nhau, với những cảm tưởng giống nhau. Một nông dân ở thôn ấp nào đó ngoài Phú Yên, Quảng Ngãi v.v… ăn phở Bắc cũng như ăn hủ tiếu Mỹ Tho, cũng như ăn mì Tàu, nghĩa là hững hờ. Còn người nông dân ở Cà Mau, Rạch Giá v.v… chẳng hạn có thể có sự thiên vị bất lợi cho phở. Người Việt miền Nam chỉ hoan hỉ chấp nhận món phở sau một vài canh cải, tức sau khi đã trút vào tô phở được non nửa dĩa giá sống.

Phở là món ăn phổ biến hết sức rộng rãi từ Bắc chí Nam mà còn thế, huống hồ là những món ăn khác. Mỗi món ăn thường chỉ được sủng ái ở một vùng, hoặc rộng hoặc hẹp. Xơi nó thì ai cũng xơi được, nhưng gọi là tri kỷ, biết đến tận cùng cái ngon của nó, chỉ có thể là người một địa phương. Chả cá, bún thang, là những thứ quí của đất Bắc; từ ngày vào Nam dường như nó lạc lõng, ít ai thấu triệt ý vị của nó. Bún bò, bánh lá, ngày nay lưu lạc khắp nơi; nhưng tôi tưởng tượng ở một góc chợ Trương Minh Giảng, ở một hẻm Bàn Cờ, thỉnh thoảng miếng bánh lá mỏng mà gặp lại một cái lưỡi Huế có phảng phất mùi thuốc Cẩm Lệ nó sẽ mừng rơn. Bỏ một miếng bánh, húp một muỗng bún vào mồm, có phải ai cũng thưởng thức như ai đâu. Giữa món ăn với người ăn phải có sự tương đắc. Khi đã tương đắc, đã cảm thông sâu xa với nhau, người Nam ăn ba khía, ô môi, người Huế ăn cơm hến, người Bình Định ăn mắm cua chua chan bún thấy thấm thía, nồng nàn. Cái mùi vị nồng nàn ấy, kẻ khác không chịu được.

Mỗi món ăn chỉ có một số người thực sự hiểu nó, số người ấy là của một địa phương. Vậy món ăn có liên hệ đến khí hậu địa phương chăng?
Ở xứ lạnh dễ thấy cái ngon trong trong chất mỡ béo, ở xứ nóng dễ rành về các thứ rau, canh. Người Huế ăn cay, một phần hình như cũng vì khí trời ẩm ướt của những mùa mưa dai dẳng. Người miền Nam thích giá sống vì nó giải nhiệt?

Khi đã chuyên ăn một món nào đó, người ta càng ngày càng thành thạo trong việc chọn lựa, sử dụng, người ta tìm thấy ở nó những đặc điểm mà kẻ khác không để ý đến; do đó người ta vượt bỏ, tách rời khỏi quần chúng. Về quả ớt chẳng hạn, chắc chắn đồng bào ở các nơi ít ai theo kịp người Huế trong cách thưởng thức: kẻ yêu ớt không chỉ yêu nó vì cái vị cay, mà còn vì mùi hăng nồng, vì cái tiếng kêu giòn phát ra dưới răng khi cắn nó, lại yêu vì trông nó sướng mắt, cầm nó sướng tay trong giây phút mân mê trước khi đưa lên mồm… Người Huế ngoài cách ăn ớt bột, ớt tương, ớt xắt, ớt giã v.v…, còn thích lối ăn cầm cả trái ớt tươi rắn chắc mà cắn kêu đánh bụp trong miệng thật ngon lành; để cắn, họ chọn ớt xanh.

Nhưng một chuyện khí hậu nhất định không đủ. Cái ăn còn tùy thuộc ở sản phẩm sẵn có của địa phương, ở lịch sử v.v… Ở lịch sử? Nghe thì to chuyện, nhưng chính tại lịch sử mà người Bình Định quen ăn bánh tráng. Thứ bánh tráng Bình Định tìm mua ở Sài Gòn rất khó, vì không thấy bán ở các chợ, chỉ gặp tại một vài nơi ngoại ô hẻo lánh; người Bình Định có những bữa ăn dùng toàn bánh tráng thay cơm, cho nên bánh tráng ở đây có địa vị quan trọng hơn ở các địa phương khác. Đi xa, người Bình Định nhớ bánh tráng như người Việt sang Âu châu nhớ cơm, nhớ bánh cuốn. Như thế có phải vì bánh tráng từng là lương khô dùng trong quân đội Nguyễn Huệ, xuất phát từ Bình Định?

Món ăn còn quan hệ với lịch sử theo cách khác. Thiết nghĩ người Việt Nam đời Trần dùng món thịt cầy không đối diện với dĩa rau thơm giống dĩa rau thơm chúng ta có trước mặt ngày nay. Không phải đột nhiên tự lúc đầu lá mơ đã đi với thịt cầy, rau om đã tìm đến thịt cầy. Tôi chắc thế. Các đấng tổ tiên phải có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm; có thể các ngài đã thử dùng lá chanh và rau răm ăn với thịt heo chẳng hạn, dùng rau om với thịt gà, dùng lá lốt với thịt cầy chẳng hạn v.v… Cả tập thể tham gia vào cuộc tuyển trạch, mọi người đều có quyền tự do khen chê. Những cái không thích hợp dần dà bị đào thải, các lầm lẫn được sửa chữa, các thiếu sót được bổ túc. Cứ thế, từ thế kỷ nọ sang thế kỷ kia, hết thế hệ này đến thế hệ khác kế tiếp nhau canh tân, rốt cuộc mới đến chỗ toàn mỹ.

Nhưng đã toàn mỹ chưa? Chưa chắc. Hôm nay ta nhắm nháp chả cá, lấy làm đắc ý và hãnh diện về nghệ thuật nấu nướng của dân tộc; tam bách dư niên hậu, có thể cách ấy sẽ bị xem là quá thô sơ. Trước đây năm bảy thế hệ, trên mâm chả cá có thể thiếu thìa là, có thể thiếu chén đậu phụng rang, mắm tôm có thể thiếu giọt cà cuống… Sau đây năm bảy thế hệ người Việt nữa, ai ngờ được sẽ xảy ra thêm những phát kiến gì mới?

Một món ăn, nó cần có thời gian để tự cải tiến; mỗi địa phương cần có thời gian để hoàn thiện các món ăn của mình. Lâm Ngữ Đường chê bai món ăn Tây phương nghèo nàn: nó nghèo nàn như vậy phải chăng vì lịch sử văn minh của Tây phương ngắn ngủi hơn của Trung Hoa? Lịch sử dần dà làm phát triển văn chương, khoa học; nó cũng làm phát triển các món ăn nữa. Nhưng trong khi các kế hoạch gia hy vọng đốt giai đoạn để sản xuất gấp bom nguyên tử, không ai đốt được giai đoạn để cải thiện món phó-mát, để sản xuất gấp một thứ phó-mát mới ngon hơn các thứ cũ. Nghệ thuật khoan thai đủng đỉnh hơn khoa học; nó không chịu sự thúc bách giục giã. Phải chờ đợi. Phải có thời gian cho nó.

Sự hình thành của một món ăn cũng như của một câu ca dao, của một điệu dân ca. Ấy là những công trình tập thể, trong đó mỗi cá nhân đều có sự đóng góp. Thật dân chủ, bình đẳng: mỗi người một lá phiếu. Lá phiếu ở đây là cái lưỡi. Và sự chọn lựa của mỗi người không có lý do gì để thiếu chân thành. Mỗi người chọn lựa bằng cả các tạng phủ của mình, bằng tất cả các đặc điểm thể chất của mình, để cùng nhau đi đến cái kết quả chung trong đó mỗi người của địa phương đều có trách nhiệm: người Huế tìm ra cái hay ho của ruốc, người Nam thấm thía ý vị của nước cốt dừa v.v… Tại sao vậy? Người ta không tìm được câu trả lời dễ dàng. Sự chọn lựa ấy, căn nguyên của nó bắt nguồn từ những cội rễ nào thâm thiết sâu xa trong kiến trúc sinh lý của con người mỗi nơi. Người của mỗi địa phương có một cá tính riêng về tâm lý: có nơi hào hùng, có nơi keo kiệt, có nơi ưu du nhàn dật… Mỗi địa phương cũng có thể có một cá tính sinh lý chăng? Sự dị biệt trong thứ cá tính ấy hẳn là mong manh, tế nhị, tinh vi lắm; khó lòng mà biện biệt phân minh. Tuy nhiên rõ ràng nó đã nêu ra những đòi hỏi khác nhau, những sở thích khác nhau.

Như vậy người ta không chỉ ăn bằng mồm. Con người ăn là ăn bằng cả gốc gác quê hương, bằng phong tục tập quán của mình, bằng cái khí chất riêng biệt của cơ thể mình, cũng như bằng lịch sử, bằng trình độ văn hóa của xứ sở mình. Trong một dĩa đồ ăn, có phản ảnh của khí hậu một miền, của những đặc điểm sinh lý con người địa phương… Và giả sử nói có cả phản ảnh của một phần nào những đặc điểm tâm hồn trong đó có quá chăng? Cái vị ngọt rất thanh của các thứ chè ở Huế gợi nhớ đến nét dịu dàng trong giọng nói và trong tính tình người Huế. Nhất là nếu so sánh thứ nước chấm pha chế rất dịu ở Thừa Thiên với thứ nước mắm thường dùng giữa khoảng đèo Hải Vân cho đến đèo Đại Lãnh, người ta không khỏi nghĩ đến cái tâm lý xẳng xớm bộc trực của người dân Việt từ Quảng Nam Quảng Ngãi trở vào…

Từ chút nước mắm chấm rau chấm thịt mà nói đến tâm hồn con người, e đã quá xa. Tưởng không nên tiếp tục chuyện ăn uống nữa, nếu không muốn lạc vào chỗ viển vông lố bịch.
Nhưng văn chương nghệ thuật lại cũng không khác cái ăn là mấy. Ca dao, dân ca là sản phẩm của một địa phương; và thưởng thức đến tận cùng cái hay ho của nó hình như cũng chỉ có thể là người của địa phương. Nghe một điệu ru à ơi trong đêm khuya chúng ta rung cảm thấm thía đến đáy lòng, tưởng trên thế giới khó có một giống dân nào nghe điệu hát ấy mà cùng có được cái rung động của chúng ta. Họ có nghe chăng bất quá là nghe bằng lỗ tai thẩm âm tinh tế; còn chúng ta nghe bằng cả quãng đời thơ ấu của riêng mình, bằng truyền thống của dân tộc mà mỗi chúng ta thừa tiếp nơi mình


Xem Sách- Võ Phiến
  http://vnthuquan.org/truyen/truyentext.aspx?tid=2qtqv3m3237ntn1n1nvn31n343tq83a3q3m3237nvn&AspxAutoDetectCookieSupport=1




 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét