Cảm ơn Dr Binh Nhung đã mang bài Từ lên diễn đàn.
Thơ Đường luật thì còn theo được chứ bài Từ thì chịu.
Hiểu thư pháp đã khó, huống chi dịch hay viết một bài từ .Nho gia/DS Hồ Hoàng Điệp dịch 300 bài Từ của Liễu Vĩnh là một công trìhn đồ sộ, đáng nể phục.
Nhân thể mời đọc bài viết của ông Nguyễn Văn Sâm về BS Nguyễn Đương Tịnh/Trúc Cư, chúng ta có thể hiểu thêm về Từ.
TNĐG.
Tống Từ,
Phiên âm, dịch nghĩa, minh họa của BS Trúc Cư Nguyễn Đương Tịnh
Một Công Trình Đáng Đọc
Phiên âm, dịch nghĩa, minh họa của BS Trúc Cư Nguyễn Đương Tịnh
Một Công Trình Đáng Đọc
Văn chương Trung Hoa có câu thiệu nổi tiếng ‘Hán phú, Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc’, để chỉ bốn thể loại văn học thạnh hành vào bốn triều đại của đất nước nầy. Nói thạnh hành vì khi nói Hán phú không phải do phú xuất hiện vào đời Hán mà vì văn nhân đời Hán thích làm phú và làm phú hay. Cũng vậy các nhóm chữ Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc, có nghĩa là thơ luật thịnh hành đời Đường, từ nổi bật đời Tống, và khúc lên cao điểm đời Nguyên.
Nhưng bốn thể loại trên qua tới Việt Nam và tạo ảnh hưởng mạnh lên văn học Việt chỉ có hai thứ: Nhà Nho Việt thích làm phú và thi (thơ Đường) mà lơ là với thể khúc và thể từ.
Lý do là vì hai thể loại sau dính dáng nhiều đến ca nhạc. Phú để đọc, thi để ngâm, khúc và từ để ngân nga, để hát. Riêng từ thì bên Trung Hoa phát triển độ 1000 thể điệu, mỗi điệu sanh thành bắt đầu bằng bài từ đầu tiên viết theo thể nầy. Nói cho dễ hiểu, chúng như những thể loại bài ca Mẫu Tầm Tử, Xàng Xê, Lý Con Sáo, Khổng Minh Tọa Lầu, Vọng Cổ…. làm cái nền khuôn nhạc cho người sau trong các bài ca của cổ nhạc Miền Nam.
Nhạc Hoa khác với nhạc Việt do nhiều ngữ âm họ có ta không, và nghịch lại, cho nên những gì hễ dính dáng tới nhạc thì không tạo ảnh hưởng nhiều ở Việt Nam. Vì vậy khúc và từ có mặt ở vùng đất nầy một cách mờ nhạt đến nỗi người học văn chương biết rất ít về khúc và từ trong khi rành, thích phú và thi..
Từ đó nhà Nho Việt làm phú, làm thi bằng Hán văn sành đến người Trung Hoa phải nể phục. Sự dịch thuật hai thể loại nầy từ những tác phẩm của văn nhân Trung Hoa phải nói là vô vàn..
Trong khi đó ta ít thấy tác giả Việt Nam sáng tác thể loại từ bằng Hán văn, mấy thập niên đầu của thế kỷ 20 mới có lác đác vài người làm từ bằng quốc ngữ cũng như không thấy ai dịch từ và dịch cả mấy trăm bài như thường làm ở Đường thi.
Hình như bài từ đầu tiên của Việt Nam là bài Vương lang quy của Khuông Việt Đại Sư 匡越大師 làm theo điệu Nguyễn lang quy, khi tiễn sứ nhà Tống là Lý Giác về Trung quốc. Vì Lý Giác sống vào thời cực thịnh của từ nên hai người trao đổi với nhau bằng thể loại nầy:
Tường quang, phong hảo, cẩm phàm trương祥光風好錦㠶張
Thần tiên phục đế hương神仙復帝鄉
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương千重萬里涉滄浪
Cửu thiên quy lộ trường九天歸路長
Nhân tình thảm thiết đối ly trường人情慘切對離觴
Phan luyến tinh tinh lang攀戀星星郎
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương 願將深意為南強
Phân minh báo ngã hoàng分明報我皇
Bản dịch của Trúc Cư đáng để ý vì những ưu điểm của nó, giữ được nhạc điệu:
Vương lang quy: (theo điệu Chàng Nguyễn trở về)
Trời quang gió thuận đẩy căng buồm,
Anh trở lại quê hương.
Nghìn trùng xa cách lời khôn xiết,
Một thân vạn dặm trường.
Biệt ly khiến lòng tôi đau quặn,
Luyến tiễn anh lên đường.
Xin anh hảo ý tâu thiên tử,
Một lòng với Nam phương.
Lịch sử lâu dài và phong phú của từ Trung quốc để lại nhiều bài từ hay, cảm động do nói được tình ý thâm sâu của tác giả. Bài thường được nhắc đến là bài Túy Hoa Âm 醉花陰của nữ thi nhân Lý Thanh Chiếu 李清照
Bạc vụ nùng âm sầu vĩnh trú, 薄霧濃雲愁永晝
Thụy não tiêu kim thú, 瑞腦銷金獸
Giai tiết hựu trùng dương, 佳莭又重陽
Ngọc chẩm sa trù, 玉枕紗廚
Bán dạ lương sơ thấu, 半夜涼初透
Đông ly bả tửu hoàng hôn hậu, 東籬把酒黄昏後
Hữu ám hương doanh tụ 有暗香盈袖
Mạc đạo bất tiêu hồn, 莫道不銷魂
Liêm quyển tây phong, 𤎉卷西風
Nhân tỷ hoàng hoa sấu 人比黃花瘦
Tôi nghĩ bản dịch của Trúc Cư ngoài sự thấu đáo về nội dung, sẽ giúp người đọc hiểu hơn về thể loại từ khi để ý đến âm điệu của nó:
Túy hoa âm (điệu say dưới bóng hoa)
Sương mỏng mây mù ngày tẻ nhạt
Lư đồng trầm hương tắt
Lại đến tiết trùng dương
Rèm kín gối êm
Lạnh nửa đêm thấu cật.
Dậu đông đến chiều vàng say khướt
Tay áo vương hương ngát
Đừng tưởng gã vô tình
Gió vén rèm thu
Người lẫn hoa ủ dột
Cách đây 4 năm tôi ngạc nhiên trong thích thú theo dõi từng kỳ những bài từ dịch rất lưu loát của dịch giả Trúc Cư, mà mình không biết là ai, đăng trên trang mạng của hội cựu Quân Y VNCH. Sau nầy mới biết đó là Bác sĩ Nguyễn Đương Tịnh, ông sau hai năm bị tù ‘cải tạo’ sang định cư ở Pháp nhờ sự can thiệp của một cơ quan quốc tế. Ngạc nhiên không phải chỉ vì thời nay còn có người dịch từ mà vì những bản dịch của ông xuất thần, đúng nghĩa, lột được ý, hiếm khi thêm hay bớt chi tiết và nhứt là bảo toàn được âm điệu của nguyên tác. Tôi bàng hoàng khi đọc từng bài bản dịch của ông, rồi đi đến kết luận đây là một người có tâm hồn thơ đã thấu hiểu cái tinh túy của loại thơ khó nuốt nầy.
Dịch thơ Đường khó vì ngoài việc giữ gìn niêm luật còn có những chi tiết nhỏ như thanh thoát, hiểu ý tác giả, thấu đáo từ ngữ, không ‘cương’ để diễn dịch theo ý mình…, dịch từ, như đã nói, khó hơn một bước, là phải giữ được cái không khí nhạc của nguyên tác. Dịch giả Trúc Cư đạt được những điều đó, khiến cho người đọc lĩnh hội được nhiều điều về mặt kiến thức cũng như mặt thưởng thức nghệ thuật.
Có thể có người nói sẽ rằng, lúc nầy, chuyện cá ngộ độc chết đầy biển từ nước thải Vũng Áng, chuyện nhân dân trong nước khi đòi hỏi bất kỳ thứ gì thuộc quyền lợi cơ bản của người dân đều bị đánh đập trù dập, chuyện Trung quốc tấn công Việt Nam đủ mọi mặt từ trước mặt cũng như sau lưng, thì dịch thơ Đường, dịch từ khúc là chuyện lạc dòng lịch sử, không giống ai.
Tôi nghĩ ta nên phân biệt văn hóa và chánh trị, phân biệt văn hóa đáng khen ngàn xưa của một nước và chánh sách đáng chê hiện tại của nhà cầm quyền nước đó. Việc tìm hiểu bất kỳ những thứ gì về văn hóa, văn học của Trung quốc, của Pháp quốc…, do vậy, cũng là điều đáng được khích lệ.
Cái ích lợi đầu tiên của những công trình có thể bị một số người coi như lạc điệu đó là giúp ta có thêm kiến thức về những vấn đề văn hóa của một đất nước chúng ta cần tìm hiểu.
Cũng nên nhắc thêm là Bác sĩ Nguyễn Đương Tịnh ngoài chuyện dịch từ ông là người rất ‘đứng trong thời thế’ khi viết/in hai tập hồi ký Tìm Lại Dĩ Vãng (Pháp quốc, 1999) trong đó lập trường và nhận xét của ông là những yếu tố quí giá để ta định trị những nhóm người nào có công hay có tội với lịch sử bi thương hơn nửa thế kỷ gần đây của dân Việt.
Tóm lại, con người của Bác Sĩ Nguyễn Đương Tịnh khiến cho ta mến trọng và quyển từ khúc Việt dịch ‘TỐNG TỪ, phiên âm, dịch nghĩa, minh họa’ của Trúc Cư hữu ích, đáng đọc về mặt thưởng thức cũng như chuyên môn.
Nguyễn Văn Sâm
(Victorville, CA, tháng 6, 2016)
__._,_.___
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét