Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

Nỗi Đau Tuổi Già


Nỗi Đau Tuổi Già

 
Ở đây, chúng ta không bàn chuyện đau nhức, cao máu, tiểu đường...nữa, vì đã có quá nhiều vị bác sĩ quan tâm tới tuổi già trên đất Mỹ này. Những loại đau trên đã có thuốc và có chính phủ Mỹ trả tiền, nhưng có những thứ đau khác không có thuốc chữa và cũng không ai kê vai gánh vác giùm.


 

Báo OC Register thứ sáu tuần trước có đăng tin một ông già bị người ta đem bỏ trước cổng một ngôi chùa ở thành phố Westminster. Ông lặng lẽ ngồi trước hiên chùa suốt ngày. Cảnh sát đến mang ông vào bệnh viện tâm thần. Ông không có trong người bất cứ một thứ giấy tờ nào để biết được ông là ai, ở đâu. Ông không nói một lời nào, chỉ biết lặng lẽ, đôi khi cười một mình như một người mất trí. Ông là một người Á Châu, Việt Nam cũng chưa chừng, như vậy ông không phải sinh ra ở đây, hay từ trên trời rơi xuống như cô bé Maika trong một tập phim Tiệp Khắc. Vậy là có người chở ông tới và bỏ ông lại đây, không ai ngoài con cái hay thân thích của ông. Lâu nay thỉnh thoảng người ta thấy có những thiếu phụ sinh con rồi đem con bỏ vào thùng rác, nhưng chưa thấy ai đem cha mẹ vứt bỏ ngoài đường. Ông già chỉ cười vu vơ, trí nhớ của ông đã suy kiệt, nếu không ông sẽ đau khổ biết chừng nào?

Trước đây người ta kể chuyện có người chở bà mẹ già bỏ ở cây xăng, tôi không tin, tưởng là chuyện đùa, nhưng bây giờ thực sự lại có người “đem cha bỏ chùa ”.

Cũng lại câu chuyện của một người già. Tháng trước, trong một dịp đưa người thân đi Việt Nam, tại quầy vé China Airline ở phi trường Los Angeles tôi đã chứng kiến một cảnh khá đau lòng. Trong khi mọi người đang xếp hàng trình vé, cân hàng thì một bà cụ người Việt cứ loay hoay lúng túng trước quầy vé với các thứ giấy tờ vương vãi, bề bộn trên sàn nhà. Bà ngồi bệt xuống đất hết móc túi này đến túi nọ, vẻ mặt lo lắng. Một nhân viên an ninh phi trường thấy tôi cũng là người Á Đông, ngỏ ý muốn tôi lên giúp bà cụ. Nhân viên quầy vé cho biết bà có vé máy bay, một visa nhập cảnh Việt Nam nhưng không có passport hay thẻ xanh. Tôi giúp bà moi từ đống giấy tờ ra chỉ thấy một cái hộ chiếu của Việt Nam cấp cách đây mười mấy năm khi bà đến Mỹ đã hết hạn và một cái ID của bà do tiểu bang Florida cấp. Bà mới từ Florida đến phi trường Los mấy giờ trước đây một mình và trình giấy tờ để lên máy bay đi Việt Nam.
 
Cuối cùng, bà cũng lên được máy bay, nhưng bà sẽ không bao giờ có thể trở lại Florida nữa vì trong tay bà không có passport của Hoa Kỳ, không thẻ xanh, không “entry permit”. Đây là trường hợp một bà mẹ già, quê mùa bị con cái “mời khéo” về Việt Nam. Tội nghiệp cho bà đã ngồi trên máy bay năm sáu tiếng đồng hồ để đến phi trường LAX, sắp tiếp tục chặng đường về Việt Nam nhưng không biết là mình không thể trở lại Mỹ và lòng bất nhân của con cái. Hình ảnh bà già này cứ ám ảnh tôi mãi. Bà vụng về, quê mùa, có lẽ cũng chẳng giúp ích được gì cho con cái mà chỉ thêm gánh nặng. Thôi để cho bà đi, khi biết mình không trở lại Mỹ được thì chuyện đã rồi. Tuổi bà có nằm lại trên quê hương cũng phải, sống chẳng giúp ích gì được cho ai, chết ở đây bao nhiêu thứ tốn kém.

 
Hai vợ chồng sang Mỹ từ hai mươi năm nay, đi làm nuôi con, mua được căn nhà đã pay off. Khi các con đã có gia đình ra riêng thì ít năm sau ông cụ cũng qua đời. Thấy mẹ hiu quạnh trong một căn nhà khá lớn, mà giá nhà đang lên, các con bàn với mẹ bán nhà đi rồi về ở với các con. Bà mẹ bán nhà, thương con chia đều cho mỗi đứa một ít, còn dăm nghìn dắt lưng, rồi về ở với con. Bà không biết lái xe, không biết chữ nghĩa, cũng không biết trông cháu làm home work, nên cha mẹ chúng phải nhờ người đưa đón. Bà thích nấu ăn, gói bánh, kho cá, nhưng sợ nhà hôi hám, con cái không cho. Lúc đầu thì chẳng sao, lâu dần mẹ thành gánh nặng. Buổi chiều, đứa con gái xô cửa trở về nhà, thấy mẹ đang gồi xem TV, nó hất hàm hỏi: -“Có hiểu gì không mà thấy má ngồi coi suốt ngày vậy?” Có lúc chuông điện thoại reo, đứa con nhấc máy, bên kia không biết ai hỏi gì, trước mặt bà già, nó trả lời nhát gừng:-“Bả đi khỏi rồi!”

Một bà mẹ khác, ở chung nhà với một đứa con nhưng nhờ một đứa con khác đưa đi bác sĩ. Xong việc, nó đưa mẹ về rồi lẹ lẹ dọt xe đi làm. Bà già vào tới cửa, móc túi mãi không tìm ra cái chìa khóa nhà. Bà không có chìa khóa, không cell phone, cũng không có tiếng Anh, sợ sệt không dám gõ cửa hàng xóm. Bà ngồi đó, trên bục cửa cho tới chiều, khi đứa con ở chung nhà đi làm về, thì bà đã kiệt sức vì khô nước, phân và nước tiểu đầy mình.

Đời xưa, người ta kể chuyện trong một gia đình, có hai vợ chồng đối xử với ông cha già đã run rẩy của mình tệ bạc, cho cha ăn trong cái “mủng dừa”. Một hôm hai vợ chồng đi làm về thấy đứa con nhỏ của mình đang hì hục đẽo một cái gáo như thế, được cha mẹ hỏi, nó “thành thật khai báo” rằng “để dành cho cha mẹ lúc về già”.
Đâu phải ai nuôi con cũng nghĩ tới lòng cha mẹ, cũng như nhớ chuyện “trồng đậu có đậu, trồng dưa có dưa”.



Huy Phương



Khoảnh khắc thiên thu
 
 
Cởi đi bộ áo ngòai
Lau sạch đi son phấn
Thì ai cũng như ai
Và sẽ về cát bụi
 
 Sóng và Người
 
 
Trên mặt biển bao la
Nhấp nhô những con sóng
Những đợt sóng gần xa
Sóng to kề sóng nhỏ
 
 
Sóng nhỏ ngầm tủi thân
Buồn rầu hỏi sóng lớn
Sao lớn mạnh như thần
Còn tôi nhỏ lăn tăn
 
 
Sóng lớn cười hiền hòa
Khẽ khàng bảo sóng nhỏ
Vì bạn chẳng nhận ra
Gốc gác thật của bạn
 
 
Thật ra thực chất mình
Chúng ta đều là nước
Cần chi phải bất bình
Dù ai to ai nhỏ
 
 
Bỏ đi vỏ sóng ngòai
Thì tôi cũng như bạn
Cũng là nước như nhau
Tất nhiên ta bình đẳng
 
 
Con người nếu ngộ ra
Biết ta từ đâu đến
Cái gì tạo nên ta
Thì có đâu giai cấp
 
 
Dù ai sang ai hèn
Cùng đinh hay tột đỉnh
Cho dù cố bon chen
Cũng không thể phủ nhận
 
 
Cởi đi bộ áo ngòai
Lau sạch đi son phấn
Thì ai cũng như ai
Và sẽ về cát bụi
                                    
 




































 

Thứ Năm, 11 tháng 2, 2016

Người Hùng Tí Hon - tập 12 - Công Nhân Quét Rác Mười

Người Hùng Tí Hon - tập 12 - Công Nhân Quét Rác Mười

Outlook.com Active View
Người Hùng Tí Hon - tập 12 - Công Nhân Quét Rác Mười Năm Kutin
Công Nhân Quét Rác Mười Năm Kutin - Người Hùng Tí Hon - tập 12
00:10:15
Added on 18/01/2016
803,214 views

Sàigòn - kết cục- Nguyễn Tài Ngọc



Sàigòn - kết cục-
Nguyn Tài Ngc
 
 
 
 
 
 
Tôi rời Việt Nam ngày 30-4-1975, trở lại SàiGòn lần đầu tiên hai mươi năm sau vào năm 1995. Cuộc chiến Nam Bắc kéo dài hơn 20 năm trong suốt thời gian tôi sinh sống ở SàiGòn nên đối với tôi nó là một quãng thời gian dài đăng đẳng. Đúng hai mươi năm sau nữa khi trở lại SàiGòn, thời gian xa nhà này không những quá lâu dài đối với tôi, mà nó còn làm cho tôi thấy quê hương tôi khác lạ, cảnh trí ngộ nghĩnh vì tôi đã quen thuộc với cảnh vật ở Hoa Kỳ.
 
Khi máy bay chạm đất ở phi trường Tân Sơn Nhất, thấy xác của vài chiếc trực thăng Huey vẫn còn nằm đây đó chung quanh đám cỏ dại để lại di tích tồn tại của chiến tranh, nước mắt tôi lăn tròn hai bên má. Tôi khóc vì cảm động thấy lại quê hương cũ, căn nhà cũ  mà tôi nghĩ sẽ chẳng bao giờ có dịp trông thấy lại. Tôi khóc vì biết sẽ được nghe lại tiếng Việt đàm thoại trong một xã hội toàn là những người cùng một mầu da với tôi.
 

Thứ Năm, 4 tháng 2, 2016

MÙA XUÂN IM LẶNG TRONG ÐÔI GUỐC


 
MÙA XUÂN IM LẶNG TRONG ÐÔI GUỐC
 
Con cái đã quên, không còn ai nhớ đến đôi guốc mộc.  Sau đám tang của mẹ, mấy người con gom quần áo của bà đốt hết.  Riêng đôi guốc gỗ nằm nơi xó tường nên chả người con nào để ý.  Mấy tháng, kể từ ngày bà nằm trên giường bệnh, đôi guốc lúc bị đá vào xó tường này, lúc bị đẩy sang góc tối kia, đến độ người nhà không còn để ý nó là đôi guốc của ai.
Từ ngày theo người mẹ đó về nhà, đôi guốc giã từ những tháng ngày thong thả, mơ mộng trên quầy hàng.
* * *
Thủa xưa, khách vào ra, ngắm nghía, nâng niu, chủ hàng chẳng bao giờ để đôi guốc bám bụi.  Ðôi guốc chả phải làm gì, sống như thế thật nhàn hạ.  Nhưng nếu nghĩ cho cùng, cũng không thiếu nhàm chán, chả có gì mới mẻ trong cuộc sống cả.  Ðôi lúc, đôi guốc nghe như có hai tiếng nói thì thầm trong hồn nó.  Một là bảo nó cứ nằm yên ở đây cho nhàn hạ, hai là bảo nó hãy bỏ đây xuống đời tìm cho cuộc sống một ý nghĩa.
- Chả nhẽ cứ tiếp tục là đôi guốc nằm trên quầy hàng như thế này mãi sao?
Nó không phải là đồ trang sức, không phải là bức tranh cho người ta ngắm.  Có nhàn hạ, nhưng nằm mãi ở đây thế này nó bắt đầu thấy chán, càng ngày càng thấm thía những suy nghĩ về một cõi sống trên những nẻo đường của cuộc đời.  Nhưng mỗi khi nhìn đôi guốc dưới chân các bà mẹ, nó lại nghe tiếng nói khác thì thầm: "Vất vả quá!" Có đôi guốc sứt mẻ.  Có đôi guốc mòn xác xơ.  Ðiều đó làm nó nghĩ ngợi.
Ðời là một chọn lựa.  Cứ tiếp tục suốt đời giam mình ở đây hay bước xuống đường để ra đi đây đó? Sau cùng nó quyết định ra đi.
Một trưa xế nắng kia, có người thiếu phụ vào tìm mua đôi guốc.  Chủ hàng đem nó ra giới thiệu. Nhìn dáng người thiếu phụ, đôi guốc biết người đàn bà ấy thật thà, nhưng thấy dáng bà có vẻ nghèo. Những người nghèo thường vất vả.  Bước chân của người nghèo là bước chân khổ.  Làm thân guốc cho một người nghèo vất vả lắm.  Thật thà mà nghèo chắc cũng chả hạnh phúc.  Cuộc sống bây giờ chẳng ai quý người nghèo.  Càng suy nghĩ, đôi guốc càng lưỡng lự, cứ sợ người đàn bà ấy chọn mua mình.
đôi guốc 3Nó phân vân không biết có nên theo chân bà ta hay không.  Ðời luôn là phải chọn lựa như thế.  Vất vả, nghèo mà thật thà, đặc tính của người muốn mua nó có vậy thôi.  Ðôi guốc nghĩ thầm: "Ðến lúc muốn ra đi, lại gặp phải người đàn bà nghèo thế này.  Hay ta chờ một người đàn bà khác giàu có.  Theo chân người giàu sẽ sung sướng hơn?"
Trong lúc nó phân vân, người đàn bà cầm đôi guốc ngắm nghía, cho xuống chân ướm thử.  Một làn hương thơm huyền nhiệm toát ra từ đôi chân bụi đường.  Ðôi guốc vô cùng kinh ngạc, làm sao điều ấy có thể xảy ra được.  Nó đã được nhiều đôi chân đẹp ướm thử mà chưa bao giờ có hiện tượng lạ lùng như thế.  Phải là đôi chân dịu dàng mới toát ra vị thanh tao được chứ.  Ðôi chân trần của người đàn bà nhà quê mốc thếch.  Làm sao đôi chân lấm lem lại có thể toát ra một hương nhân đức kỳ bí được.  Nó không ngờ.  Ðiều huyền diệu ấy, tiếng lương tâm đôi guốc bảo cho nó biết rõ là đến từ lòng thật thà, bao dung, vất vả hy sinh của người mẹ kia.  Bấy giờ, nó hối hận vì quá vội nghi ngờ đánh giá khi nhìn sự nghèo khó bên ngoài.  Lòng hối hận ấy làm nó bừng lên một ước ao mãnh liệt là được theo chân bà. Linh tính cho nó biết nơi dấu chân người mẹ này có một thế giới huyền diệu.  Nhưng người mẹ băn khoăn đặt nó vào kệ gỗ vì bà không đủ tiền.
Ðôi guốc gỗ mím môi tiếc xót vì từng bị thử dưới bao đôi chân, chưa thấy bước chân nào kỳ lạ như bước chân của người mẹ này.  Giữa lúc nó muốn theo chân người đàn bà để khám phá thế giới linh thiêng kỳ bí đó, bà lại không đủ tiền mua nó.  Bà tần ngần đặt đôi guốc lại kệ gỗ.
Người chủ hàng chỉ bán rẻ những đôi guốc bị nứt thôi.  Ðôi guốc nghĩ thầm: "Hay là ta đánh đổi đời mình thành đôi guốc nứt?"  Nếu vậy, còn gì dáng vẻ, vì cả một đời sẽ mang dấu vết nứt đó.  Ðôi guốc suy nghĩ quay quắt về một chuyến đi trong đời.
Người đàn bà lại cầm nó trên tay, tiếc vì không đủ tiền.  Ðôi guốc giật mình nghĩ rằng đời không có nhiều cơ hội.  Nếu bà không đủ tiền mua nó, bao giờ bà sẽ quay lại?  Có thể sẽ không bao giờ.  Nếu bà đặt nó trở lại quày hàng, biết đâu nó sẽ vĩnh viễn không bao giờ gặp lại bà?  Nó lấy hết can đảm theo tiếng gọi thâm sâu của linh hồn, chấp nhận một thương đau cho khởi đầu một chân trời kỳ bí kia đang chờ đón.  Nó quyết định chấp nhận đời mình thành đôi guốc nứt.  Tức khắc, ngay khi quyết định xong, nó nghe như trong linh thiêng có một trận chiến vô hình.  Tiếng nói của Bóng Tối gục xuống.  Tiếng nói của Ánh Sáng bừng lên.  Cũng trong lúc ấy, như chiều cao thập giá đổ xuống, một vết thương xước ra, chạy dài toàn thân.  Nó ngất lịm.  Thế là nó thành một đôi guốc nứt.
Người đàn bà giơ lên nhìn kỹ.  Bà ồ lên một tiếng thở nhẹ, vui mừng vì một khám phá:
- Ông chủ tiệm ơi, nhìn kỹ đi, đôi guốc có vết nứt đây này.
Người chủ tiệm tiếc rẻ.  Ngần ngừ, ông đành bán tống nó đi.
Lúc tỉnh dậy, đôi guốc đã về đến nhà người đàn bà.  Bà xoa xoa vết nứt, tìm mũi đinh đóng lại.  Một lần nữa, nó đau buốt thân mình.  Nhưng trong mỗi nhát búa, nó thấy mùa xuân đang về trên những nhánh gai.  Nó bắt đầu cảm thấy ý nghĩa của nước mắt và hạnh phúc.  "Tôi sẽ theo chân bà ta đi đâu bây giờ?"  Trời đang vào hạ hanh nắng hay cúc vàng nhuộm xuân.  Nó hồi hộp tự hỏi.
Ngày hôm sau, ngay chuyến đi đầu tiên nó đã mệt rã rời.  Trời xuống tối, bà vẫn chưa về đến nhà. Quẩy gánh nặng trên vai.  Con đường cứ dài thăm thẳm, toàn thân mình đau ê ẩm.  Ðường đất miền quê sỏi đá gồ ghề, ngay chân bà cũng trượt té trầy da huống chi đôi guốc.  Nó bị nện xuống gập ghềnh. Như vậy mà đã từ bao lâu nay người mẹ này cứ bước chân không, nghĩ đến nỗi đau, nó thấy xót xa cho bà.  Nhìn xuống nỗi đau của mình, nó muốn chia sẻ với bà nỗi đau kia.  Lạ lùng quá, khi mới chợt có ý nghĩ ấy, nó thấy toàn thân nóng bừng, và trên nỗi đau nó thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh.
Qua một buổi chiều mà đôi guốc đã khám phá bao nhiêu bí mật đời sống dưới bàn chân một người mẹ:
- Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm có thể bay ngược chiều gió.
- Chịu đựng bao giờ cũng cho tâm hồn nét đẹp cao thượng.
- Gánh nặng vì tình yêu luôn luôn đi đôi với sức mạnh.
- Thật thà là mật ngọt nuôi dưỡng bình an.
- Nhẫn nại là những đường may nối dài tình thương.
Quá mệt, đôi guốc ngủ thiêm thiếp lúc nào không hay.  Lúc ướt lạnh, nó co người rùng mình thì người mẹ đã đang ở bờ giếng kéo nước đổ vào nồi cám nấu cho heo.  Ðôi guốc bàng hoàng không biết trời đang vào khuya hay đã về sáng.  Chung quanh chỉ là đêm tối lần mò.  Nó lắng nghe bước chân. Người mẹ hết quanh quẩn trong góc bếp lại ra cầu ao.  Khuya thế này rồi sao bà không nghỉ ngơi?  Ðôi guốc mệt đừ.
* * *
Thời gian thấm thoát thoi đưa.  Thoát chốc đã đến ngày đôi guốc mòn quá rồi.  Bây giờ nó không còn là hình dạng đôi guốc ngày xưa trong cửa hàng nữa.  Xấu xí, lem luốc, nứt nẻ.  Nhìn lại quãng đời, đôi guốc không thể biết được nó đã bước bao nhiêu đường dài.  Nếu mỗi ngày bà mẹ quẩy gánh 10 cây số, thì 365 ngày một năm, đã trên 3 ngàn cây số rồi.  Trời ơi!  Ðôi guốc không ngờ nó đã đồng hành với bà trên một dặm đường dài hơn cả đất nước của người đàn bà như thế.
Ðôi guốc không hiểu sao nó có sức chịu đựng trung thành theo chân bà.  Nó còn nhớ ngày xưa nằm trên quầy tủ cửa hàng, mới chỉ nghĩ đến ra đi đã ngao ngán quá rồi.  Vậy đâu là sức mạnh?  Gần đến cuối đời, đôi guốc nhìn lại những bến bờ đã đi qua, nó thấy cộng lại những cây số ngàn ấy, không bước chân nào của bà mẹ không có tình thương.  Từ sớm tinh mơ đến tan chợ chiều, bà vất vả cũng vì các con mà thôi.  Từ đó, đôi guốc khám phá ra khi nó được chia sẻ đời nó trong tình yêu, tình yêu cho nó sức mạnh.  Bất cứ nơi nào có tình yêu thì có sức sống.  Bất cứ gỗ đá nào chạm vào tình yêu cũng thành trái tim mềm mại thiết tha.  Và nó hiểu, nó không đi tìm mùa xuân vì chính nó đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.
* * *
Thưa mẹ, con còn nhớ một đêm kia, khuya quá khuya, mẹ ngồi bên con, nhìn con trong cơn sốt.  Làm sao mẹ có đôi đũa thần của bà tiên quyền phép làm cho con hết cơn đau.  Mẹ cứ ngồi bên con vậy thôi.  Mẹ không an lòng rời xa con.  Mẹ đặt tay lên trán con chờ mong từng giây cho con hết bệnh.  Muốn uống một ly sữa, con chỉ cần đưa chiếc ly lên miệng uống là xong.  Bây giờ nhìn lại, con thấy đêm đó, khi chợt nghe con muốn một ly sữa, mẹ vội thắp thêm đèn, chiếc đèn dầu con tù mù, lệch kệch ra sau vườn kéo gầu nước, nhóm bếp củi mù than đun nước.  Mẹ hối hả không ngại ngùng gõ cửa hàng vào những giờ người ta không muốn thức giấc để mua, hòa cho con một ly sữa.
* * *
Sau khi bà mẹ chết, đôi guốc nằm im lặng nơi góc tường tối.  Không người con nào để ý.  Nó âm thầm một đời theo chân người mẹ, hy sinh, vất vả, chịu đựng.  Lúc người mẹ còn sống, đôi guốc đã âm thầm như thế.  Bây giờ bà chết rồi, nó vẫn tiếp tục cái âm thầm của bao tháng ngày về trước.  Chẳng lẽ bất cứ điều gì liên quan tới mẹ đều lặng lẽ như thế sao?
Tình yêu của những người mẹ dường như bao giờ cũng âm thầm.  Xin những người con hãy khua động tình yêu âm thầm ấy của mẹ bằng một cánh hoa linh hồn.
Kìa, ngoài kia đất trời đã đang chuyển mình tìm mùa xuân.
Lạy Chúa, con cũng đang đi tìm mùa xuân cho cuộc đời.  Chân đi trong đời để tìm mùa xuân nhiều khi rất đau.  Và bây giờ con hiểu, con nhớ tới đôi guốc của mẹ con.
 
LM Nguyễn Tầm Thường, S.J. (Trích trong Cô Đơn và Sự Tự Do)


“Bến Xuân” và giai thoại về mối tình dang dở

        

“Bến Xuân” và giai thoại về mối tình dang dở


 “Bến Xuân” và giai thoại về mối tình dang dở




ovv posted: "     Lắng nghe Bến Xuân , có lẽ mỗi người không thể không nhớ đến mối tình giữa Văn Cao và cô tiểu thư Hoàng Oanh. Một chuyện tình lãng mạn, nên thơ nhưng éo le trắc trở, khiến cho những câu ca của bài hát càng da diết, ám ảnh hơn bao giờ hết. "
Respond to this post by replying above this line

New post on OVV

“Bến Xuân” và giai thoại về mối tình dang dở

by ovv
    Lắng nghe Bến Xuân , có lẽ mỗi người không thể không nhớ đến mối tình giữa Văn Cao và cô tiểu thư Hoàng Oanh. Một chuyện tình lãng mạn, nên thơ nhưng éo le trắc trở, khiến cho những câu ca của bài hát càng da diết, ám ảnh hơn bao giờ […]
ovv | 31/01/2016 lúc 1:36 sáng | Tags: Thu Thảo, Văn Cao | Categories: Tài Liệu, Tạp bút | URL: http://wp.me/pawFi-34K
Bình luận   See all comments
Unsubscribe to no longer receive posts from OVV.
Change your email settings at Manage Subscriptions.
Trouble clicking? Copy and paste this URL into your browser:
https://ongvove.wordpress.com/2016/01/31/ben-xuan-va-giai-thoai-ve-moi-tinh-dang-do%cc%89/
Thanks for flying with WordPress.com



Hợp soạn :  Văn Cao & Phạm Duy
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần
Bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân
Từng đôi rung cánh trắng ríu rít ca u ú ù u ú
Cành đào hoen nắng chan hoà!
Chim ca thương mến, Chim ngân xa u ú ù u ú
Hồn mùa ngây ngất trầm vương,
Dìu nhau theo dốc mới nơi ven đồi
Còn thấy chim ghen lời âu yếm
Tới đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền soi nước
Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân.
 
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha lưu luyến tình vừa qua.
 
Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác
Em vắng tôi một chiều
Bến nước tiêu điều còn hằn in nét đáng yêu
Từng đôi chim trong nắng khẽ ru u ú ù u ú
Lệ mùa rơi lá chan hòa
Chim reo thương nhớ, Chim ngân xa u ú ù u ú
Hồn mùa ngây ngất về đâu
Người đi theo mưa gió xa muôn trùng
Lần bước phiêu du về bến cũ
Tới đây mây núi đồi chập chùng
Liễu dương tơ tóc vàng trong nắng
Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xuân.
Thu Thảo tổng hợp
Nguồn :Giai phẩm Vườn Chu Văn An 54-61 Xuân Bính Thân 2016








BenXuan






Lắng nghe Bến Xuân , có lẽ mỗi người không thể không nhớ đến mối tình giữa Văn Cao và cô tiểu thư Hoàng Oanh. Một chuyện tình lãng mạn, nên thơ nhưng éo le trắc trở, khiến cho những câu ca của bài hát càng da diết, ám ảnh hơn bao giờ hết.


Những i xung quanh những tác phẩm trữ tình bao giờ cũng lãng mạn như chính những tác phẩm tuyệt vời ấy. Với những người yêu nhạc Văn Cao, có lẽ câu chuyện xung quanh sự ra đời của Bến Xuân sẽ còn được nhớ mãi, bởi nó đẹp và nên thơ quá. Thêm nữa, có lẽ những điều mãi dang dở thường trở nên lung linh huyền ảo hơn chăng?
Nhạc sĩ Văn Cao
Nhạc sĩ Văn Cao
Trong những năm đầu thập kỷ 40, Văn Cao có chơi rất thân với hai người bạn. Một người là ca sĩ Kim Tiêu, người còn lại là nhạc sĩ Hoàng Quý, người thành lập ra nhóm nhạc Đồng Vọng nổi tiếng đất Hải Phòng . Văn Cao chơi rất thân với Kim Tiêu và trong một lần Kim Tiêu đưa Hoàng Oanh,một nữ ca sĩ của đất Hải Phòng khi đó,đến buổi tập những sáng tác đầu tay của Văn Cao, hai người phải lòng nhau từ ánh mắt đầu tiên
Sau khi Hoàng Oanh biết được Văn Cao chính là tác giả của những ca khúc lãng mạn nổi tiếng thì lòng ngưỡng mộ của nàng dành cho Văn Cao càng tăng lên. Có lẽ ai cũng biết tình cảm người kia dành cho mình, chỉ có điều “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. Nhưng, éo le một nỗi là  Văn Cao biết hai người bạn thân của mình – Kim Tiêu và Hoàng Quý cũng đều đem lòng yêu mến Hoàng Oanh, và hai người đều tỏ bầy điều này với Văn Cao.
Nhạc sĩ Văn Cao tâm sự: “Tôi yêu một người con gái … mà tôi không ngỏ lời với người ta … Nhưng mà họ hiểu, và họ tới với tôi … thành ra nó mới có cái chuyện là em đến tôi một lần … thì cái đó là một cái mối tình câm … mà rồi để lại cho cuộc đời mình thành một bài hát. Thế thôi! Không có cái gì nữa.”
Hoàng Oanh đến thăm Văn Cao lần đầu tiên khi ông ở bến Ngự (Hải Phòng). Cái ngày hôm ấy, trời nóng, Văn Cao cởi trần nằm bò ra sáng tác. Trong căn nhà chật chội, Hoàng Oanh ngồi quạt cho chàng nhạc sĩ, và Văn Cao đã thổ lộ với cô: “Ước gì anh có em để hằng ngày em quạt cho anh sáng tác, em vá quần thủng cho anh, làm mẫu cho anh vẽ …” 
Đó cũng là lần duy nhất cô gái đến thăm ông và đó cũng là câu tỏ tình duy nhất mà Văn Cao dành cho Hoàng Oanh, giản dị mà chân tình, nhưng ông cũng biết là hai người không thể thuộc về nhau.
Lần đến thăm đó đã được ông nhớ suốt đời, ông đã ghi cả vào những câu ca cho bài hát Bến Xuân
“Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần“
Câu hát “Em đến tôi một lần” sao mà hay và đi vào lòng người đến thế .
Là một con người tài hoa, Văn Cao còn đề nghị Hoàng Oanh làm người mẫu cho những bức tranh của mình, và hình bóng của nàng đi vào từng nốt nhạc lời ca trong bài hát Bến Xuân, bài hát viết tặng riêng cho Hoàng Oanh :
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần
Bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân
Từng đôi rung cánh trắng ríu rít ca u ú ù u ú
Cành đào hoen nắng chan hoà!
Chim ca thương mến, Chim ngân xa u ú ù u ú
Hồn mùa ngây ngất trầm vương,
Dìu nhau theo dốc mới nơi ven đồi
Còn thấy chim ghen lời âu yếm
Tới đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền soi nước
Tà áo  rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân.
Mối tình của Văn Cao và Hoàng Oanh không thành cũng một phần bởi Văn Cao luôn nghĩ đến hai người bạn thân của mình, ông không muốn làm “kẻ ngáng đường”. Nhưng Kim Tiêu lại không thể đến được với Hoàng Oanh vì  một thời gian sau, gia đình ca sĩ Kim Tiêu  mang lễ vật đến hỏi Hoàng Oanh, nhưng không thành bởi vì nhà gái thách cưới cao quá . Sau này, chính Kim Tiêu lại là người đầu tiên giúp Văn Cao thể hiện Bến xuân.
Cô tiểu thư Hoàng Oanh sau đó lên xe hoa với nhạc sĩ Hoàng Quý, tuy nhiên ông trời phũ phàng, chỉ được ít lâu thì Hoàng Quý mắc bệnh viêm phổi và qua đời.
Bà Thuý Băng hồi trẻ qua nét vẽ của nhạc sĩ Văn Cao
Bà Thuý Băng hồi trẻ qua nét vẽ của nhạc sĩ Văn Cao
Chuyện tình giữa Văn Cao và Hoàng Oanh có lẽ thực sự chấm dứt sau khi Văn Cao yêu và lập gia đình với một cô tiểu thư xinh đẹp khác, cũng là con gái nhà giàu, là nàng thiếu nữ Nghiêm Thuý Băng, và bà cũng là người vợ hiền bên ông tận đến những ngày cuối cùng của cuộc đời.
Lắng nghe Bến Xuân, có lẽ mỗi người không thể không nhớ đến mối tình giữa Văn Cao và cô tiểu thư Hoàng Oanh. Một chuyện tình lãng mạn, nên thơ nhưng éo le trắc trở, khiến cho những câu ca của bài hát càng da diết, ám ảnh hơn bao giờ hết.


 Bến Xuân – Văn Cao Trình bày : Thái Thanh Audio Player 00:00 05:59 Use Up/Down Arrow keys to increase or decrease volume. Bến Xuân

Trình bày : Thái Thanh
Audio Player

Bến Xuân
Hợp soạn :  Văn Cao & Phạm Duy



Bến Xuân – Văn Cao
Trình bày : Thái Thanh
Audio Player

Bến Xuân







Hợp soạn :  Văn Cao & Phạm Duy



Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước

Em đến tôi một lần
Bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân
Từng đôi rung cánh trắng ríu rít ca u ú ù u ú
Cành đào hoen nắng chan hoà!
Chim ca thương mến, Chim ngân xa u ú ù u ú
Hồn mùa ngây ngất trầm vương,
Dìu nhau theo dốc mới nơi ven đồi
Còn thấy chim ghen lời âu yếm
Tới đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền soi nước
Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân.

Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha lưu luyến tình vừa qua.

Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác
Em vắng tôi một chiều
Bến nước tiêu điều còn hằn in nét đáng yêu
Từng đôi chim trong nắng khẽ ru u ú ù u ú
Lệ mùa rơi lá chan hòa
Chim reo thương nhớ, Chim ngân xa u ú ù u ú
Hồn mùa ngây ngất về đâu
Người đi theo mưa gió xa muôn trùng
Lần bước phiêu du về bến cũ
Tới đây mây núi đồi chập chùng
Liễu dương tơ tóc vàng trong nắng
Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xuân.
Thu Thảo tổng hợp
Nguồn :Giai phẩm Vườn Chu Văn An 54-61 Xuân Bính Thân 2016

Gửi phản hồi